Báo chí Việt Nam ngay từ khi ra đời đã thể hiện vai trò của một động lực lớn trong những tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Kế thừa kinh nghiệm và truyền thống của những dòng báo chí yêu nước và tiến bộ, báo chí cách mạng Việt Nam từ buổi sinh thành với những trang báo Thanh Niên đơn sơ năm 1925, tới hôm nay với hàng trăm toà soạn, hàng chục đài phát thanh, truyền hình, đã thực sự trở thành một quyền lực văn hoá tinh thần hùng hậu, từng ngày từng giờ cung cấp thông tin, mở mang dân trí, tuyên truyền, khích lệ mọi người dân trong công cuộc dựng xây đất nước. Từ chức năng công cụ tư tưởng, báo chí cách mạng của chúng ta đang chuyển hoá và chú trọng nhiều hơn tới các chức năng văn hoá và dịch vụ. Báo chí đã là một nghề nghiệp mới, mặc dù là một nghề nghiệp đặc thù, chưa có một bể dày truyền thống dầy dặn như nhiều nghề văn hoá khác.
Nhìn vào lịch sử báo chí Việt Nam, chúng ta dễ có cảm giác là chúng ta đã có một thực tiễn lịch sử báo chí sinh động, hào hùng, nhưng lại chưa có một nền báo chí học tương ứng. Những công trình nghiên cứu sâu sắc, thấu đáo về lịch sử báo chí Việt Nam chưa có. Những giáo trình nghiệp vụ, sách công cụ cho đào tạo nghề báo còn quá ít. Mãi tới năm 2004, một viện nghiên cứu báo chí đầu tiên mới được thành lập và đến nay nó vẫn là duy nhất, đơn độc trên con đường xây móng đặt nền. Dường như thực tiễn đấu tranh và cách mạng của đất nước lâu nay không cho phép những người làm báo Việt nam dừng chân và phân tâm vào các lĩnh vực lý thuyết, học thuật. Hối hả "dùng cán bút làm đòn xoay chế độ", tất tả đeo ba lô, cầm máy, cầm bút vào chiến trường, các nhà báo chiến sỹ của chúng ta thường quan tâm tới kết quả từng chiến dịch, từng phong trào và thành tựu chung của cách mạng mà tạm gác lại những khái quát lý thuyết về mục đích, phương tiện và kỹ năng nghề nghiệp của mình.
Nhưng kỷ nguyên của truyền thông hiện đại đã bắt đầu từ lâu. Mỗi công dân Việt nam hôm nay đang sống như một mắt lưới nhỏ trong mạng truyền thông chằng chịt, muôn chiều. Từng ngày, từng giờ, mỗi các nhân phải tiếp nhận, xử lý, quyết định ứng xử với hàng loạt thông tin đổ tới (1). Vậy, một ngành khoa học nghiêm túc - khoa học về báo chí và truyền thông phải được xây dựng. Gắn bó với hệ thống đào tạo nghề báo, ngành khoa học đó sẽ sớm đáp ứng được những yêu cầu hôm nay và đón đầu những thử thách của truyền thông đại chúng trong tương lai... Xuất phát từ những trăn trở ấy, được sự giúp đỡ của Ban Khoa học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, được sự đồng viên của các đồng nghiệp trong Trường và của nhiều nhà báo, cuốn sách Thuật ngữ Báo chí - Truyền thông của chúng tôi đã hinh thành.
Nằm trong những nỗ lực chung về biên soạn và đối mới giáo trình, học liệu của khoa Báo chí - Đại học Quốc gia Hà Nội, cuốn sách này được tổ chức như một thế nghiệm ban đầu nhằm hướng tới một cuốn từ điển báo chí - truyền thông sắp tới. Sách được soạn theo cấu trúc một từ điển giản yếu, xếp các thuật ngữ theo trật tự ABC để tiện lợi cho tra cứu tham khảo.
Về tên sách, chúng tôi sử dụng từ "thuật ngữ chỉ trong ý nghĩa tương đối. Vì rất nhiều mục từ không hắn đã là thuật ngữ mà chỉ là những từ ngữ quen dùng trong hoạt động báo chí, Chúng tôi dùng gạch nối giữa "báo chí" và "truyền thông" vì hai lẽ. Một là nhằm nhấn mạnh bản chất truyền thông của báo chí.
Hai là nhằm khẳng định quan hệ giữa báo chí và truyền thông như là mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể, nói cho cặn kẽ hơn, là quan hệ giữa cái "đại bộ phận" với cái tổng thể.
Do văn học - một loại hình truyền thông cổ điển, có quan hệ ruột rà, tương tác với báo chí và các loại hình truyền thông khác, chúng tôi đã chọn nhiều thuật ngữ hơn để đưa vào nội dung. Một số thuật ngữ đó cũng được trình bày cặn kẽ hơn là nhằm khắc phục tình trạng sử dụng ngẫu hứng, thiếu chính xác của nhiều sinh viên ngành báo lâu nay khi viết khoá luận, luận văn.
Việc lựa chọn thuật ngữ để đưa vào nội dung cuốn sách được tiến hành dựa trên ba tiêu chí - nhu cầu. Thứ nhất là tính cơ bản. Để đảm bảo tiêu chí này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thống kê tần số xuất hiện của thuật ngữ trong nhiều giáo trình nghiệp vụ và sách chuyên khảo của hai khoa Báo chí thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Học viện báo chí và tuyên truyền thuộc học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cũng như trong các tài liệu truyền thông đại chúng dịch từ tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Séc. Thứ hai là tính thực tiễn. Tiêu chí này được thực hiện dựa trên kinh nghiệm cá nhân, đúc rút từ nhiều năm viết báo, đọc báo, tham gia sáng tạo và tiếp nhận các sản phẩm truyền thông. Tuy không đủ điều kiện thẩm định, nhưng chúng tôi tin rằng đó sẽ là những thuật ngữ thông dụng, phổ biến nhất trong quá trình tác nghiệp của sinh viên sau khi ra trường. Thứ ba là tỉnh sư phạm. Tiêu chỉ này được xác định theo những nhu cầu giảng dạy và đào tạo cử nhân báo chí học của Đại học Quốc gia Hà Nội, mà thành phẩm đào tạo là những cử nhân vừa có khả năng làm báo, vừa có khả năng nghiên cứu khoa học cơ bản trong lĩnh vực truyền thông.
...