Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những thành công to lớn trong cuộc chiến chống đói nghèo với tỷ lệ nghèo đói đã giảm từ 58,1% trong năm 1993 xuống dưới 12.1 % vào năm 2008, mặc dù tỷ lệ này vẫn còn tương đương với trên 10 triệu người nghèo trên cả nước. Những người nghèo, chủ yếu tập trung ở vùng núi, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số, đang ngày càng khó có thể tự mình thoát khỏi đói nghèo do bị cô lập và không có khả năng tiếp cận với nguồn thông tin, thị trường và các nguồn lực, đặc biệt là đất đai.
Chính phủ đã xây dựng nhiều chương trình hướng vào nhóm người nghèo này trên phạm vi toàn quốc cũng như hỗ trợ họ tiếp cận với các dịch vụ xã hội.
Nghiên cứu này hỗ trợ cho hoạt động của Ủy ban Các vấn đề Xã hội của Quốc hội trong việc khảo sát một cách tổng quan các chính sách và dự án giảm nghèo của Chính phủ Việt Nam.
Thông qua việc tổng kết tất cả các chương trình giảm nghèo của Việt Nam từ khâu thiết kế đến khâu thực hiện, nghiên cứu này cố gắng đánh giá các dự án, chính sách này từ góc độ liệu các dự án, chính sách có hỗ trợ trùng lặp các đối tượng hưởng lợi hay không. Nhóm nghiên cứu đã trao đổi với các cán bộ cấp tỉnh, huyện và xã tại bốn tỉnh để tìm hiểu cụ thể hơn về tình hình thực hiện các dự án giảm nghèo nhằm mục đích đánh giá mức độ chồng chéo trong công tác điều hành trên thực tế.
Về phạm vi, nghiên cứu này tập trung vào các dự án, chính sách với tất cả các hợp phần hoặc có yếu tố hỗ trợ giảm nghèo trực tiếp, dù là được hỗ trợ kinh phí trực tiếp từ ngân sách nhà nước hay chỉ là thông qua các chính sách tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận dịch vụ xã hội. Về mục tiêu, nghiên cứu này chủ yếu chỉ rà soát các dự án giảm nghèo ở Việt Nam mà không đánh giá chi tiết tình hình thực hiện các chương trình giảm nghèo của chính phủ Việt Nam hoặc rà soát các văn bản pháp quy liên quan đến các hoạt động giảm nghèo. Đánh giá chi tiết có thể tham khảo qua các báo cáo đánh giá giữa kỳ đã được thực hiện cho hai chương trình giảm nghèo lớn, đó là Chương trình 135-II và CTMTQG-GN và hiện sắp hoàn tất đối với Chương trình Cấp Nước và Vệ sinh Môi trường nông thôn. Các báo cáo này sẽ đưa ra đánh giá về tình hình thực hiện từng chương trình/dự án.
Báo cáo nghiên cứu này gồm ba phần. Thứ nhất, nhóm nghiên cứu “tổng kết" sơ bộ về các chính sách và dự án hiện tại của Chính phủ trong lĩnh vực giảm nghèo. Khâu tổng kết này liệt kê các chính sách của Chính phủ để xây dựng một cơ sở dữ liệu về các chính sách và dự án giảm nghèo của Việt Nam từ lúc thiết kế và sau đó so sánh với các kết quả báo cáo khi thực hiện. Trong khâu tổng kết, dữ liệu về các hợp phần của các chương trình giảm nghèo, các cơ quan giám sát chương trình, sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện và các hợp phần đã được thu thập, cũng như so sánh các đầu ra dự tính với các đầu ra đã được báo cáo.
Nhóm nghiên cứu cũng đã so sánh ngân sách báo cáo hàng năm với phần đã giải ngân để có được bức tranh về tình hình chi tiêu trên thực tế cho giảm nghèo. Điều này là rất khó khăn vì ngoài các chương trình giảm nghèo quy mô lớn như Chương trình 135 giai đoạn II (CT135-II) và Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (NSVSMTNT), tình hình báo cáo về chi tiêu của từng dự án giảm nghèo còn rất yếu với rất ít thông tin có sẵn.
Ma trận cuối cùng về chính sách giảm nghèo đã có riêng dưới bảng excel với bản tóm tắt trong phụ lục 1 và bao gồm thông tin cụ thể về:
• Các hình thức hỗ trợ của Chính phủ và các đầu ra và kết quả dự kiến
• Mức hỗ trợ cung cấp tài chính trong khuôn khổ mỗi chính sách và dự án
Các nhóm mục tiêu của dự án
• Trách nhiệm hành chính và trách nhiệm thực hiện Vai trò của những bên tham gia khác nhau
• Mức vốn và nguồn vốn khi thiết kế và trong quá trình thực hiện
Phụ lục 2 sẽ nêu chi tiết các văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động giảm nghèo. Phụ lục 3 sẽ nêu chi tiết các hợp phần và tiểu hợp phần theo ngành.
Tại Việt Nam, việc có được số liệu đáng tin cậy luôn luôn là vấn đề. Điều tra này cũng không phải là ngoại lệ. Việc tiếp cận được với các số liệu cụ thể về giải ngân ngân sách là vấn đề khó nhất. Tuy tính nhạy cảm là một lý do giải thích cho vấn đề này nhưng hạn chế chủ yếu vẫn là do thiếu số liệu chi tiết về ngân sách chi cho nhiều dự án ở quy mô nhỏ hơn.
Việc báo cáo về tác động của các chương trình thường được thực hiện rất sơ sài và chỉ chú trọng vào những kết quả đạt được ở cấp toàn tỉnh và huyện chứ không báo cáo về kết quả tác động của từng chương trình. Do đó rất khó để biết được mỗi chương trình đã tạo ra được tác động gì.
Phần hai của điều tra và báo cáo phân tích các phát hiện từ đánh giá tổng quan các chính sách giảm nghèo và nghiên cứu sâu hơn về các vấn đề chồng chéo giữa các chương trình cũng như sự phối hợp giữa các chương trình giảm nghèo khác nhau.
Phân tích này được củng cố thông qua các đợt khảo sát của nhóm nghiên cứu tới một số tỉnh nhằm kiểm chứng lại các phát hiện của nghiên cứu dựa trên dữ liệu sẵn có cũng như các phát hiện từ đánh giá tổng quan các dự án/chương trình theo như “thiết kế”. Nhóm nghiên cứu đã tới các tỉnh Trà Vinh, Nghệ An, Đak Nông và Lào Cai để làm việc với các cán bộ cấp tỉnh và cấp huyện. Tất cả những tỉnh này đã được nhận hỗ trợ của nhiều chương trình giảm nghèo của Chính phủ chứ không phải của một chương trình.
Phần hai của nghiên cứu sẽ xem xét nhiều hơn về:
• Mức phù hợp và tối ưu của các hỗ trợ được cung cấp thông qua các chính sách và các giải pháp
• Những chồng chéo có thể xảy ra và khả năng phối hợp giữa các chính sách và biện pháp giảm nghèo mục tiêu cũng như giữa chúng với các chính sách "trong hệ thống thường xuyên" khác của quốc gia.
• Mức độ phối hợp giữa các chính sách và dự án giảm nghèo với các chính sách vĩ mô quan trọng hiện hành. Cuối cùng, báo cáo sẽ đưa ra một số khuyến nghị trên cơ sở những phát hiện trong các phân tích và báo cáo từ các chuyến khảo sát tại cấp tỉnh này.