Đã lâu lắm tôi chưa được đọc một cuốn địa danh phương chỉ nào đầy đủ như cuốn này: ngoài những mục thường thấy trong những cuốn khác, như địa lý, lịch sử, cổ tích, nhân vật, nguồn lợi kinh tế... tác giả còn chép lại nhiều thống kê mới nhất về thời tiết, giáo dục, lại có sáng kiến ghi cả giọng nói và cách phát âm của dân quê tỉnh Phú Yên. Chỉ đọc những bản kê những sách báo tham khảo, gồm trên hai chục loại, ta cũng thấy công phu của tác giả ra sao, mà công phu đó còn là nhỏ so với công phu ông chịu đi khắp từng miền, tiếp xúc với mọi từng lớp dân chúng, gom góp những tài liệu sống như phong tục, ca dao, bài vè, câu thơ, điệu hát... đó rồi khi dẫn dắt ta thăm cảnh, ông vừa giảng giải vừa xen những tài liệu đó vào cho câu chuyện thêm vui, nhờ vậy ta có cảm tưởng được đọc một tập du ký hơn là một cuốn địa phương chỉ. Đúng như lời ông nói, ông đã “văn nghệ hóa môn sử” để chúng ta hiểu non sông hơn và yêu non sông hơn.
Khi gấp tập bản thảo lại, tôi bâng khuâng nhớ lần tôi thăm Phú Yên cách đây đã trên hai chục năm, nhớ từ những rặng dương ở Đại Lãnh tới những vườn dừa ở Sông Cầu; nhớ cảnh Hảo Sơn hùng vĩ, lạnh lẽo rùng rợn trong sương chiều, nhớ những động cát trùng trùng điệp điệp đỏ rực lên khi mặt trời mọc; nhớ ngọn Bi Sơn mà đi đến đâu tôi cũng thấy cơ hồ nó có sức hấp dẫn kỳ dị, phải chăng vì nó còn giữ di tích của vua Lê Thánh Tôn, nhớ nhất là những bãi cát vàng xinh xinh, hình bán nguyệt, viền sóng bạc, quay mặt ra những cái vũng mà nước xanh như ngọc thạch và dựa lưng vào những rặng núi cao ngất, âm u. Một đêm tôi qua Đèo Cả, đương mê man ngắm cảnh biển mênh mông nhấp nhô dưới ánh trăng thì xe lửa qua một khúc quẹo và những lớp sóng bạc bỗng biến đâu mất và trước mặt tôi hiện lên một dãy núi đen tím với một cái vùng lốm đốm mươi ngọn đèn chài đỏ trên một làn nước phẳng lặng, cảnh biển đổi thật là huyền ảo và trong một phút, tôi đã có cảm giác mọc cánh mà lên tiên.
Dọc theo miền duyên hải Phú Yên, có biết bao nhiêu những cái vũng đẹp như vậy, thực đúng như là ca dao trong miền:
Vũng Dông, vũng Lấm, vũng Chào,
Vũng Lu, vũng Sứ, chỗ nào cũng thương.
Và tôi "thương" cảnh Phú Yên ngay từ buổi đó. Đã có lần tôi dự định sẽ kiếm một khu vườn ở vũng Lắm hoặc Xuân Đài để ngắm cảnh núi non trời biển cho thỏa mắt.
Mộng đó chưa được thực hiện thì hôm nay ông Nguyễn Đình Tư vô tình nhắc nhở tôi làm cho tôi nhớ thời xưa mà lòng sinh bùi ngùi. Có cái duyên gì đây mà ông Nguyễn gởi tác phẩm đầu tiên của ông cho tôi đọc trước, mà tác phẩm đó chính là tác phẩm viết về một miền mà tôi thích, tôi mê?
Tôi ao ước cuộc đời ông đấy ông Nguyễn ạ.
Nghề Địa Chánh của ông ngày nay cũng giống với nghề Công Chánh của tôi trước kia, chí hướng của ông cũng là chí hướng của tôi trước kia. Vì trước kia tôi đã định mỗi năm đi từng chặng, thăm cho khắp miền duyên hải Trung Việt để viết một tập du kỳ nhan đề là "Theo đường thiên lý”, và tôi đã đi được từ Phan Thiết tới Qui Nhơn rồi phải ngừng vì chiến tranh, tôi lại đã viết được vài tập; nhưng rồi không hiểu có cái gì xui khiến, tôi lại bỏ cái nghề cũ nay đây mai đó giữa cảnh non sông, mà tự giam mình trong phòng sách như ngày nay, thành thử tập du ký nọ đành bỏ dở mà bản thảo thì càng xuống màu ở trong hộc tủ. Bây giờ đây, tôi già rồi, có muốn nổi lại chỉ xưa, e cũng không được nữa, nhất là trong thời buổi loạn lạc này. Thì ra, cả trong cái nghề cầm bút, dễ gì đã theo đúng chí hướng của mình. Cơ hồ như có tiền định cả. Ôi ! hôm nay sao tôi nhớ miền duyên hải Trung Việt, nhất là nhớ Phú Yên đến thế!
Thôi thì đành đợi ông xuất bản lần lần những tác phẩm của ông để mà đọc vậy. Chẳng đi được, chẳng viết được thì đọc. Ông xuất bản sơm sớm lên nhé.
Ông đã viết xong về năm tỉnh từ Khánh Hòa tới Quảng Tín, tôi mong ông viết nốt từ Khánh Hòa tới Phan Thiết, rồi từ Quảng Tín tới Quảng Trị. À, mà tới cả Quảng Bình, Hà Tỉnh... nữa chứ, sao lại không ? Ông cứ kiên nhẫn viết đi. Đừng ngại không có người đọc. Non sông của ta đẹp đẽ như vậy, công phu của tổ tiên khó nhọc như vậy mà lòng thành của ông nồng nhiệt như vậy thì thế nào chẳng có nhiều người hoan nghênh tác phẩm của ông, mà những đồng bào muốn hiểu thêm, yêu thêm nước Việt của chúng ta, chẳng nhờ ông chỉ dẫn thì nhờ ai ? Rồi ông sẽ tìm được tri kỷ ở bốn phương, sẽ có những người viết tiếp và mỗi
tỉnh trong toàn cõi, từ Hà Tiên đến Nam Quan. Và đó là niềm vui nhất của bọn cầm bút chúng ta, phải không ông ?
Ông đưa tác phẩm cho tôi coi trước là có nhã ý nhận tôi là bạn đồng chỉ của ông đấy. Tôi xin cảm ơn ông và chép lại mấy hàng này để ghi tấm lòng đó.
Sài Gòn ngày 25-1-1965
NGUYỄN HIẾN LÊ