Người Tày Trắng (Tày Khao)quan niệm người sống nghĩ gì, làm gì, ăn, ở, đối nhân xử thế như thế nào thì khi chết đi, họ lên ở với tổ tiên chứ không ra khỏi nhà, nói đúng hơn là ngự ở bàn thờ trong nhà, cũng vẫn cuộc sống như vậy và luôn dõi theo con cháu, phù hộ cho con cháu mạnh khoẻ, làm nên, ăn ra đồng thời giúp đỡ con cháu khi gặp khó khăn, trắc trở nhưng cũng sẽ phạt con cháu, khi họ đi chệch với phép tắc của dòng họ, tổ tiên, làm hại người khác, hại anh em họ mạc, trái với đạo lý làm người.
Hiện nay, thực hiện những quy định mới của Trung ương, địa phương về lễ cưới, đám tang, người Tày Trắng đã tiếp thu một cách có chọn lọc, cơ bản vẫn giữ được những giá trị nhân văn của tang lễ truyền thống. Tuy nhiên, do nhận thức còn nhiều hạn chế nên có những nghi thức của đám tang đã bị cắt bỏ vì họ tưởng rằng đó là việc làm mang yếu tố mê tín, dị đoan. Việc làm đó không được cộng đồng ủng hộ. Đa số những gia đình có người nhà qua đời, sau khi xong đám tang phải đón thầy cúng về làm ma lần thứ hai theo đúng và đầy đủ các nghi lễ truyền thống của tộc người. Chính những nghi thức này dẫn đến việc gia đình tốn kém mà ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của tộc người, hơn nữa còn ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Tang lễ truyền thống của tộc người Tày Trắng gắn với quan niệm, phong tục tập quán, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa người sống với người chết, giữa con cháu với tổ tiên, mang tính nhân văn sâu sắc, ý nghĩa giáo dục lớn lao về nhiều mặt, đặc biệt là vấn đề đạo đức, lối sống, cách nghĩ, lối nói, cách đối nhân xử thế, đạo lý làm người. Con người khi còn sống không nên làm điều ác để khi chết, hồn về với tổ tiên mới được con cháu noi gương, thờ cúng tận tâm. Quan niệm “gieo mầm nào hưởng quả ấy” được tộc người Tày Trắng giáo dục con cháu đến nơi đến chốn. Khi bậc cao niên qua đời, tất cả những bài cúng của thầy cúng, những bài lượn trống của phường kèn trống, các bài khóc than của con cháu đều mang ý nghĩa giáo dục, răn dạy, đền đáp công ơn, lời hứa sẽ cố gắng xây dựng gia đình ngày càng phát triển, con cháu khôn ngoan, giỏi giang, biết chăm sóc người lớn tuổi, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, tuân thủ quy tắc của dòng họ, của bản làng (mở rộng ra là quê hương, đất nước, chế độ...)
Các bài lượn đều có mượn điển tích, điển cố của người Trung Quốc để răn dạy con cháu thông qua những sự việc cụ thể. Trong quá trình sưu tầm và biên dịch, tác giả cố gắng bám sát các câu chuyện trong phần lời Tày để không bị Việt hoá nội dung của các bài lượn. Đặc biệt bài Văn chúc, nhiều đoạn tác giả để nguyên vì dân gian dùng toàn từ Hán-Việt để thể hiện. Những đoạn đó một mặt khó dịch, mặt khác khi đã dịch thì nội dung biểu cảm lại không được như bản gốc.
Là hội viên của Hội Văn nghệ dân gian, tôi suy nghĩ mình phải có trách nhiệm sưu tầm, lưu giữ, bảo tồn vốn văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Trong khuôn khổ của tập sách, tôi sưu tầm, biên tập và dịch toàn bộ những bài lượn trống trong tang lễ của người Tày (người Tày Trắng) ở xã Xuân Giang thuộc huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang.
H.T.C