Huyền thoại, lịch sử và hồi ký
Huyền thoại là những câu chuyện kể để làm gương, là sự gợi lại những sự kiện đã qua nhưng được trình bày như là hiện thực và thiêng liêng, chúng tạo nên những khuôn mẫu chuẩn mực cho cộng đồng người đang sống. Lịch sử thì đơn giản hơn, chỉ nhằm tập hợp những thông tin có sẵn về từng thời kỳ quá khứ nào đó và tổ chức chúng lại theo các hệ vấn đề thúc đẩy nhà sử học.
Về lý luận, sự phân biệt đó là rõ ràng. Về thực tế thì sự phân biệt đó lại không dược như thế. Bản thân các nhà sử học đã không cưỡng nổi việc xây dựng có tính chất huyền thoại lịch sử bộ môn riêng của họ. Vậy, tại sao một số lịch sử các khoa học nhân văn đôi khi lại sát gần với những huyền thoại? Nhiều nhân tố có thể được huy động, nhằm nếu lên một vài ý tưởng có tính phê phán về sự vận hành hiện nay của các môn khoa học đó. Chắc chắn, vì lẽ đó, cho nên phải đưa ra một khái niệm thứ ba, giữa Huyền thoại và Lịch sử, đó là khái niệm Hồi ký.
Trước hết, chúng ta hãy nhắc lại rằng hồi ký có những hậu quả được mất của nó. Hồi ký ăn vẫn với quyền lực", qua trung gian của uy tín. Uy tín, đó là cái phát sinh từ sự kiện thể hiện như là đang diễn tiến theo "đúng chiều của lịch sử". Việc tham gia nhóm tiền phong, huống chi lại khẳng định rằng nhóm tiền phong đó từ lâu đã bị hiểu nhằm và vì vậy những người khác có thể phải tiếp tục xin lỗi về sự ngu ngốc đã qua của họ, đã đem lại một tính chính đáng rất mạnh, vậy là đem lại một quyền lực. Nhờ đi lại với nhóm đó, người ta thấy rằng hiện tượng ấy là rất phổ biến trong cộng đồng giới trí thức. Đến mức người ta càng ngạc nhiên hơn khi nghe thấy những tác giả nổi tiếng tự giới thiệu bản thân họ như là "những người ngoài lễ trong hệ thống", gần như hơi phản nghịch, nếu nghe họ nói, ngay cả khi họ chiếm được từ lâu những vị trí hàn lâm rất vững vàng, thậm chí thống trị nữa. Tôi đã nói về các nhà sử học, nhưng tình hình cũng đúng như thế ở các nhà xã hội học, và chắc chắn ở cả các bộ môn khác (tâm lý học, khoa học kinh tế, triết học...) mà tôi ít biết hơn.
Trong khi lịch sử là một quá trình nhận thức đảm nhiệm cương vị tất yếu là tạm thời và có thể vượt qua được của nó, thì hồi ký là một cái gì xơ cứng, ít ra cũng ở một thời điểm t. Đó là, như Maurice Halbwachs đã phân tích, hồi ký, đối với các nhóm xã hội cũng như đối với các cá nhân, là một sự tổ chức quá khứ nhằm đem lại một ý nghĩa cho trạng thái các sự vật của hiện tại.
Phá dỡ các huyền thoại, vậy không phải chỉ là đem đối lập sự điều tra lịch sử với chúng, mà cũng còn là tra vấn việc xây dựng hồi ký, làm rõ những lý do hiện tại của một sự tái dựng lại quá khứ nào đó. Năm chương cấu thành phần thứ nhất của cuốn sách này sẽ được dùng vào việc đó, thông qua vấn đề về xã hội học, sử học và tâm lý học xã hội.
Lịch sử, hồi ký và sư phạm của bộ môn
Nếu nhà sử học vấp phải những hồi ký của bộ môn mà ông ta thấy có vẻ là không chính xác, ít nhất là từng phần, thì đó là ông ta cũng vấp phải một trật tự sư phạm nào đó. Bản thân trật tự đó cũng có những lý do thực tiễn của nó. Những lý do đó từng được chỉ ra trong phần kết luận của một công trình mới đây và hình như chúng ngày càng mạnh hơn, đặc biệt là trong môn xã hội học. Một số cách trình bày lịch sử của bộ môn này là thuận tiện cho các giáo viên và các tác giả sách giáo khoa viết cho trình tự các cấp học kinh tế và xã hội của trường trung học cũng như cho cấp đầu tiên của đại học.
Tình hình cũng như thế trong việc trình bày xã hội học với tư cách là một bộ môn ra đời từ hai trào lưu mang tính triết học và tính quốc gia: một là của Đức, còn một nữa là của Pháp. Từ nhiều thập kỷ nay, nhiều giáo viên trình bày xã hội học với các thế hệ sinh viên qua sự đối lập giữa Émile Durkheim và Max Weber. "Giải thích" và "hiểu" sẽ là những từ chủ chốt đưa người ta vào hai vũ trụ trí tuệ hoàn toàn khác nhau. Đối với một số người (những người gia nhập vào các "trường phái"), thì đó là hai vũ trụ trí tuệ cạnh tranh nhau. Một số tác giả thậm chí còn tưởng tượng ra sự kình địch lịch sử thực sự giữa Durkheim và Weber. Điều này là một sự bịa đặt thuần túy. Thế mà, trong việc giảng dạy thông thường môn xã hội học ở trường đại học, lời nói lặp đi lặp lại sáo rỗng đó đôi khi lại có những hậu quả to lớn về mặt sư phạm và trí tuệ. Nó thường củng cố thêm, trong một cách rất học trò, việc giảng dạy một vài khía cạnh lý luận của tác phẩm của hai khuôn mặt vĩ đại đó của lịch sử môn xã hội học, làm thiệt hại cho việc xem xét công trình thực tiễn của họ. Cũng như vậy, người ta đối lập những nhận xét về lý luận và tri thức luận của Durkheim trong Những quy tắc của phương pháp xã hội học với của Weber trong Những tiểu luận về lý luận của khoa học.
Thực tế, người ta thấy, ở đó có những sự khác biệt lớn. Nhưng tình hình thế nào mà sự xem xét đó lại không được kiểm nghiệm trong những hậu quả đã giả thiết về những nghiên cứu dựa vào kinh nghiệm của hai tác giả đó? Nếu người ta không còn đơn giản so sánh những tác phẩm lý luận trừu tượng của các công, mà so sánh các tác phẩm Sự tự tử và Những hình thức cơ bản của sinh hoạt tôn giáo của Durkheim với tác phẩm Đạo đức học đạo Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản và những công trình về xã hội học tôn giáo của Weber, thì người ta sẽ đích thực thử thách ở đó những tư tưởng lý luận, và theo tôi, người ta sẽ phát hiện ở đó những sự hội tụ gây ngạc nhiên và thú vị. Việc thực hành so sánh ấy chắc chắn sẽ khó khăn hơn và đắt giá hơn trong thời kỳ chuẩn bị, nhưng chẳng lẽ nó không đảm bảo để hoàn tất một quá trình đào tạo phong phú hơn về mặt trí tuệ cho những người được học?