Một trong những bí quyết thành công của Cụ Hồ Chí Minh trong việc trọng đại tìm đường cứu nước là Cụ ra đi từ lúc mới 21 tuổi (1911), mang theo bên mình cùng cái vốn Hán học khá lớn, một hành trang quốc học đáng kính; hành trang quốc học đó như chúng ta đều biết, bao gồm phần văn hóa dân gian Việt Nam nói chung, văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh và văn hóa dân gian Phú Xuân nói riêng. Bởi vậy, xa quê hương những 30 năm trời, trái tim Cụ Hồ lúc nào cũng đi thẳng vào lòng của đồng bào. Phải chăng là quá trớn khi tôi cho rằng người có nhiều văn hóa bác học đến mấy cũng không thể là người Việt Nam trọn vẹn, nếu ít vốn hiểu biết văn hóa dân gian; ai vừa thấm nhuần văn hóa bác học vừa thấm nhuần văn hóa dân gian thì dường như dễ vượt khỏi tai họa mất gốc - tai họa một thời phổ biến trong số người Tây học, y như trong số người Nho học trước đó. Ở góc độ quan sát này thì xưa là Nguyễn Du, nay là Hồ Chí Minh có thể được đánh giá như mẫu mực của sự hài hòa.
Cho nên ta gắng sửa mình và “trồng người” theo mẫu Cụ Hồ, trọng thị cả quốc học cổ điển và văn hóa dân gian. Kinh thi chẳng phải là một loại sách tổ của Hán học là gì? Kinh thi chẳng phải là văn hóa dân gian thời Nhị đế tam vương là gì? Văn hóa dân gian đầu phải đồng nghĩa với văn hóa thấp kém? Từ năm bảy trăm năm nay, văn hóa dân gian Việt Nam đã được các thế hệ học giả chú trọng ghi chép, ca tụng, đó là biểu hiện của lòng tự hào dân tộc; cũng là biểu hiện lòng biết ơn các bậc tiền nhân và quần chúng vô danh.
Không một ai phủ nhận sự tồn tại văn hóa dân gian địa phương trong văn hóa dân tộc cả, nhưng hỏi Nam Bộ có văn hóa dân gian đặc sắc hay không, hay là chỉ có văn hóa dân gian người Việt ở miền Nam từ đèo Hải Vân đến mũi Cà Mau, hoặc từ Bình Thuận trở vào, hoặc riêng miền sông nước Cửu Long? Tôi nghĩ rằng quyển sách mà chúng ta đang đọc sẽ trả lời phần lớn câu hỏi đó. Cả vùng Gia Định xưa, vùng Đồng Nai - Cửu Long có một lượng và chất văn hóa dân gian người Việt khá đặc sắc. Có lẽ điều này không có gì phải bàn cãi nữa. Các tác giả của quyển sách đã đặt ra và giải quyết vấn đề văn hóa dân gian Nam Bộ trong khuôn khổ và trong mỗi quan hệ biện chứng với nền văn hóa Việt Nam thống nhất, không hể vì tư tưởng cục bộ, địa phương vốn là điều xa lạ với chủ nghĩa yêu nước của Hồ Chí Minh được thể hiện trong câu nói bất hủ: “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam
Trước công trình Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay cũng đã có không ít quyển sách giới thiệu từng loại hình, từng bộ phận văn hóa dân gian Nam Bộ - miền đất “đi trước, về sau” này. Trong số tác giả đó có cả người Việt và người nước ngoài. Hình như một vật sáng ở bản chất thì thời nào cũng lọt vào mắt của những người có trí tuệ riêng lẻ. Phải đi hái từng bông hoa mới góp nên một đài hoa lớn. Bốn tác giả của tập sách này, trong chừng mực có thể, đã ra sức làm một cái “tổng sổ” của các công trình viết về văn hóa dân gian Nam Bộ có trước đó. Có lẽ đây là cố gắng đầu tiên chăng? Mong là không phải, và mong rằng mọi “tổng số” đều cần được bổ sung đến hoàn chỉnh, để tất cả chúng ta có được một kho vàng. Huống chi sự sáng tạo văn hóa dân gian là việc thường xuyên. Vài chục năm trước, có người cho rằng đời nay khoa học phát triển, học vấn cao, xã hội tiên tiến thì không còn đất đứng cho văn hóa dân gian nữa. Nhưng, văn hóa dân gian vẫn tồn tại và vẫn có sức sống và tính hấp dẫn kỳ diệu của nó. Vậy cái “tổng sổ” ấy vẫn còn đang để ngỏ. Và, tổng số vẫn chưa phải là tổng kết, mà tổng kết thì chưa ai thử làm.
Tôi còn muốn ghi ở đây, công khó của các tác giả đã thực hiện không biết mệt mỏi đi hàng trăm cây số tử vùng đất đỏ miền Đông, đến những sông rạch, bưng chằm và vùng đất đai rộng lớn của đồng bằng sông Cửu Long. Các tác giả tỏ ra là những nhà nghiên cứu khoa học thật sự nghiêm túc. Viết ra sách hay hay dở, thành công hay thất bại là vấn đề khác, nhưng cái ý thức lao động khoa học nghiêm túc như vậy là đáng được tuyên dương. Cho hay việc nghiên cứu văn hóa, nhất là văn hóa dân gian, quả không phải là một ngành nghề nhàn hạ, hễ khỏe thì làm, mệt thì nghỉ, nay chưa xong thì để mai vậy!
Cuốn sách Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ được xuất bản vào lúc đang phát triển một phong trào “Về nguồn” sôi nổi do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chủ trương. Trong lịch sử cách mạng, phong trào “Về nguồn” vốn là một cuộc vận động sinh viên, học sinh được Đảng Cộng sản yểm trợ, nhằm lấy sự tích và nhân vật anh hùng để giáo dục động viên tinh thần yêu nước yêu dẫn, chống Pháp và chống Nhật. Thuở đó ở ngoài Bắc, thanh niên, sinh viên tổ chức viếng Đền Hùng, Đền Hai Bà Trưng, thăm sông Bạch Đăng...; ở trong Nam anh chị em trình diễn trên sân khấu những vở kịch như Đêm Lam Sơn, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh... Bây giờ tuổi trẻ tổ chức đi thăm địa đạo Củ Chi, viếng tượng Bác Hồ, hành hương về nghĩa trang Trường Sơn... Những việc làm ấy phải quá, đúng quá! Đừng quên bài học “Tịch Đàm vong tổ”. Cũng đừng quên rằng quốc sử có anh hùng hữu danh và cả anh hùng vô danh. Văn hóa dân gian có phần quan trọng, quan trọng bậc nhất, là sự nghiệp của nhân dân anh hùng không tên, không tuổi.
Sẽ rất cần thiết và bổ ích, nếu thế hệ ngày nay thỉnh thoảng được nhắc nhở rằng vùng đất Nam Bộ cách đây hơn 300 năm vẫn còn là một vùng sình lầy, rừng rậm hoang vu, đầy cọp, sấu, rắn độc, muỗi mòng. Ngay cả vùng Bà Chiểu, Hóc Môn khoảng trăm năm về trước, đêm đêm cọp kéo về cả đàn, trên bãi sông Bến Nghé, hàng bầy sấu nằm phơi nắng.
Trong quá trình khai hoang, mở đất lập nghiệp mới, ông cha chúng ta đồng thời với vốn liếng tinh thần và văn hóa truyền thống mang theo từ nơi đất cội nguồn, cũng đã sáng tạo nên một nền văn hóa dân gian mang sắc thái địa phương sinh động và độc đáo ở phía Nam. Nội dung cuốn sách đã phản ánh được một phần đáng kể thực tế phong phú, đa dạng đó.
Trong tình hình hiện tại, Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ há chẳng phải là một nẻo “Về nguồn”?
Giáo sư TRẦN VĂN GIÀU