Nước ta là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc. Phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo - nơi mà sử sách nước ta thường gọi là vùng "phên dậu", biên viễn. Đó là địa bàn có vị trí chiến lược về kinh tế, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái. Do đó, trong kế sách dựng nước và giữ nước, ông cha ta rất coi trọng vùng biên viễn, sớm thực thi chính sách dân tộc nhằm thống nhất quốc gia; gây dựng mối đoàn kết, tương tự giữa các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Vì vậy, việc nhận thức sâu sắc những nhân tố hợp lý, những yếu tố tiến bộ trong chính sách dân tộc của ông cha ta có ý nghĩa thiết thực trong quá trình quán triệt, "thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển". Đó là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Với tinh thần ấy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X-XIX) (Sách tham khảo) do GS, TS. Phan Hữu Dật và TS. Lâm Bá Nam biên soạn, xem như một phần nội dung trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KHXH. 04-05 (1995-2000) "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến dân tộc, sắc tộc ở nước ta và trên thế giới. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta”.
Xuất phát từ nguồn sử liệu hiện có và bằng phương pháp phân tích sự phát triển biện chứng của lịch sử, nội dung cuốn sách tập trung vào hai vấn đề chủ yếu sau:
Một là, các nhà nước phong kiến Việt Nam trong gần 1000 năm (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX) đã rất chú trọng đến các dân tộc thiểu số, từng bước xây dựng chính sách dân tộc tương ứng với các điều kiện lịch sử và yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Về quy mô: từ nhà Hồ trở về trước, vấn đề dân tộc mới chỉ được giải quyết ở khu vực lãnh thổ từ đất Thuận - Quảng trở ra; đến nhà Nguyễn thì vấn đề dân tộc được đặt ra và giải quyết trên phạm vi lãnh thổ quốc gia hiện nay. Về biện pháp thực thi chính sách dân tộc: từ chỗ chỉ chú ý ràng buộc bằng quan hệ hôn nhân, vỗ về các tù trưởng và dân chúng; đến việc sử dụng sức mạnh của nhà nước trung ương để dẹp tan cát cứ, bảo vệ biên cương, thống nhất quốc gia. Từ chính sách "mềm dẻo phương xa" tiến đến trực tiếp quản lý, cải tổ bộ máy hành chính, pháp luật hoá, giáo hoá về sản xuất, văn hoá, xã hội, v.v..
Hai là, chính sách dân tộc của cha ông ta là di sản lịch sử, hàm chứa những bài học kinh nghiệm có giá trị cả về thực tiễn và lý luận, nhất là bài học về giải quyết vấn đề dân tộc trong tổng thể các chính sách về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.
Tuy nhiên, vấn đề dân tộc vốn sâu rộng, nhạy cảm và phức tạp nên nội dung cuốn sách khó tránh khỏi hạn hẹp, khiếm khuyết, mong bạn đọc góp ý xây dựng.
Hy vọng cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích đối với bạn đọc, nhất là các cơ quan chức năng, các nhà khoa học, các nhà hoạch định và thực thi chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Tháng 6 năm 2001
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA