TRUYỆN Nôm là một hiện tượng đặc biệt, độc đáo, khá lý thú trong lịch sử văn học Việt Nam. Truyện thơ Nôm Tày là di sản văn hóa có giá trị đặc sắc của người Tày. Đó là thành tựu nổi bật tiêu biểu về văn học của người Tày trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiềm ẩn trong các tác phẩm văn học là dấu ấn nhiều mặt của một tộc người. Đó là quan niệm về vũ trụ, quan niệm nhân sinh, đạo đức, phong tục tập quán và bản sắc văn hóa Tày.
Truyện thơ Tày được lưu truyền trong nhân dân, được các trí thức ghi chép lại bằng chữ Nôm và được cất giữ cẩn thận. Nhà văn hoá Tày Triều Ân viết: "Các pho sách truyện thơ Nôm Tày có đến hôm nay, thường được viết bằng mực Nho (mực thỏi Tàu) trên giấy sa (giấy dó), bìa sách được bồi bằng giấy dó dày, mặt ngoài bìa được láng bóng bằng nhựa cây slé (một loại cây rừng có nhựa màu nâu) hoặc nhựa củ nâu, chống thấm nước. Các pho sách thường được các "nhà hay chữ" người Tày cất giữ trong các rương bằng gỗ khảo thơm phức hoặc trong các choóng, các chẳm thàu (dụng cụ đan bằng mây, hoặc tre ngâm kỹ, hình vuông có nắp, có hoa văn rất đẹp, đặt ở đầu giường)".
Tác giả cũng khẳng định rằng: "Với số lượng truyện Nôm do các nhà Folklore học Việt Nam: Cung Văn Lược, Hoàng Quyết, Triều Ân... liệt kê, ta thấy truyện thơ Nôm Tày có khối lượng đồ sộ".
Mặc dù các nhà trí thức Tày có ý thức giữ gìn các pho truyện Nôm cẩn thận, nhưng số lượng truyện thơ Nôm còn được bảo lưu không nhiều, cả ở dạng tác phẩm thành văn và dạng bản kể dân gian. Lý do khiến truyện thơ Nôm Tày mai một, theo chúng tôi, tập trung ở một số lý do chính sau:
Thứ nhất, do luật cấm lưu truyền truyện Nôm thời phong kiến.
Điều 37 trong 47 điều lệ giáo hóa, công bố năm Quý Mão niên hiệu Cảnh Trị nguyên niên (1663) đời Lê Huyền Tông còn chép rõ trong sách "Lê triều chiếu lệnh thiện chính": "Phàm các sách kinh, sử, tử, tập cùng văn chương có quan hệ đến luân thường đạo lý ở đời mới được khắc in và lưu hành. Còn các sách dị đoan tà thuyết, Đạo giáo, Phật giáo, cùng các truyện Nôm và thơ ca Nôm có liên quan đến truyện dâm đãng, thì không được khắc in. Niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718) đời Lê Dụ Tông, chúa Trịnh Cương lại có lệnh chỉ nhắc lại nội dung trên. Ông gọi các loại thơ ca và sách trên là "tập truyện và bỉ ngữ bằng quốc âm".
Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 12 (1751) đời Lê Hiển Tông, Trịnh Tông lại hạ lệnh nhắc nhở nhân dân thi hành các điều lệ giáo hóa đã nêu.
Thứ hai, phong trào cách tân, phong trào theo quốc ngữ cũng là một trong những lý do làm cho truyện thơ Nôm ít lưu hành.
Từ những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945, chữ Tày - Nùng xuất hiện. Đây là thứ chữ cấu tạo theo chữ quốc ngữ, dựa trên bộ chữ cái La tinh, ghi lại cách phát âm của người Tày - Nùng. Ban đầu, chữ Tày - Nùng được dùng "trên những tấm thiếp giấy điều mời cưới, trên những bức phong slư của nam nữ thanh niên gửi cho nhau, hoặc trên tờ báo của cách mạng (như bài thơ "Tan nà dắp" (Gặt lúa chiêm) đăng trên báo "Việt Nam độc lập" số 171 ngày 11/8/1943; hoặc bài thơ "Mủng tổng nà" (Trông đồng lúa) cũng đăng báo "Việt Nam độc lập" số 178 ngày 20 tháng 10 năm 1943..." (Triều Ân, Hoàng Quyết, Hoàng An Định, Hoàng Thị Cành, Truyện thơ Nôm Tày, Tập hai, Giải ba công trình nghiên cứu năm 1995 của Hội Văn nghệ dân gian). Đến thập niên 60, chữ Tày - Nùng được giảng dạy trong nhà trường, được sử dụng trong mọi lĩnh vực xã hội. Những sáng tác mới bằng chữ Tày - Nùng phát triển rộng khắp, phản ánh tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng nhân dân Tày, phản ánh thực tiễn cuộc sống lao động, chiến đấu của dân tộc Việt Nam, đã cuốn hút đông đảo quần chúng lao động Tày khiến cho việc kể chuyện thơ Nôm trở nên thưa thớt dần.
Thứ ba, điều kiện lịch sử mới với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trường kỳ, huy động sức mạnh toàn dân tộc trong đó có đồng bào Tày đã thu hút tâm lực, trí tuệ của nhân dân, cũng là một trong những lý do khiến cho việc truyền tụng truyện Nôm - một loại hình văn hóa được lưu truyền theo phương thức diễn xướng, thưởng thức tập thể là chủ yếu - trở nên hạn chế.
Các lý do trên đã dẫn đến một thực trạng là các bản truyện thơ Nôm, cả nguyên bản và phiên âm bị mất dần đi. Số người Tày biết truyện Nôm ngày một ít. Thế hệ người Tày say mê truyện Nôm đã ở lứa tuổi trên 60. Những người yêu thích truyện Nôm dưới 60 tuổi đã trở nên hiếm.
Đó là một thực tế vừa đáng mừng vừa đáng lo. Bên cạnh sự phát triển của xã hội Tày ngày một hòa nhập với sự phát triển của toàn dân tộc, mảng truyện thơ có giá trị của văn hóa Tày nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung đang có nguy cơ bị lãng quên ngay trong chính dân tộc đã sản sinh ra nó.
Về số lượng: Truyện thơ Nôm Tày có nhiều thống kê không giống nhau. Năm 1972, nhà nghiên cứu Lục Văn Pảo, trong một bài báo, đã đưa danh mục truyện Nôm Tày là 47 truyện.
Tác giả Vũ Anh Tuấn trong đề tài khoa học cấp Bộ, năm 2000: "Truyện thơ Tày. Nguồn gốc phát triển và thi pháp thể loại" đã khẳng định: có một số truyện thơ Nôm Tày chưa có trong danh mục truyện Nôm Tày mà các tác giả đã thống kê.
Theo nhận định của hai nhà văn hóa Tày Triều Ân và Lục Văn Pảo trong bản thảo của tập sách "Chữ cổ người Tày - Ba áng thơ Nôm" (chưa xuất bản) thì số lượng truyện thơ Nôm Tày đã được phát hiện lên tới 67 truyện.
Những thông số không trùng lặp đó cho thấy sự đồ sộ và khả năng tiềm ẩn của mảng truyện thơ Tày và sự cần thiết của việc đầu tư, khai thác, nghiên cứu mảng văn hóa này một cách xứng đáng.
Trong hệ thống truyện thơ, truyện thơ Nôm Tày được coi là sáng tác dân gian. Mặc dù được sáng tác bằng chữ Nôm nhưng mang đậm tính chất dân gian: Từ lời thơ đến phương thức diễn xướng, từ quan niệm nghệ thuật đến việc phản ánh những quan niệm đó bằng hệ thống ngôn ngữ giàu chất dân gian...
Truyện Tử Thư - Văn Thậy được lưu truyền ở một số vùng thuộc tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn. Tại Cao Bằng, truyện được lưu truyền ở huyện Bảo Lạc. Tại Bắc Cạn, truyện được lưu truyền ở các huyện: Ngân Sơn, Bạch Thông, Ba Bể. Truyện có các tên: Tử Thư, Tử Thư - Văn Thậy (Ngân Sơn - Bắc Cạn), Tứ Thư - Văn Thụy (Bạch Thông, Ba Bể - Bắc Kạn), Sôi Văn Thậy (Bảo Lạc - Cao Bằng).
Bản truyện thơ chúng tôi giới thiệu được phiên âm từ văn bản bằng chữ Nôm của ông tôi (Gia Tiến Lụng 1906 - 1988 ở xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn). Bản gốc Nôm đã bị mất phần đầu và phần cuối, số câu còn lại gồm 1451 câu thơ thất ngôn viết tay trên giấy dó. Bản phiên âm do vậy cũng gồm 1451 câu được mẹ tôi (Gia Thị Bời - Ngân Sơn - Bắc Cạn) ghi chép lại trên giấy có dòng kẻ vào năm 1959. Truyện Tử Thư - Văn Thậy là truyện thơ có những mô típ tiêu biểu và phổ biến trong truyện cổ dân gian, đó là mô típ người mồ côi, người phụ nữ tài năng và chung thuỷ, mô típ hôn nhân tiên - trần. Qua sự phản ánh những mô típ đó, truyện cũng phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan của người Tày cùng một số nét văn hóa Tày khá tiêu biểu.