Trong giới nghiên cứu và đông đảo công chúng bạn đọc từng mến mộ Truyện Kiều của Nguyễn Du, từng quan tâm tìm hiều vấn đề văn bản và xuất xứ Truyện Kiều đều biết rằng tác phẩm được thi hào Nguyễn Du chuyển dịch, sáng tạo lại nương theo bộ tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, người đời Thanh (Trung Quốc). Một lẽ hiển nhiên lịch sử văn học thế giới cũng đã chứng kiến không hiếm những hiện tượng tương tự. Bên cạnh những tác phẩm thuộc dòng văn chương bác học vốn được xây dựng trên cơ sở để tài, cốt truyện của văn học dân gian, có tính chất nội sinh trong nền văn hoá - văn học mỗi dân tộc, thì việc chuyển dịch, sáng tạo lại và nâng cao chất lượng tác phẩm - nhất là ở những dân tộc nằm trong cùng một vùng văn hoá - chính lại là sự thể hiện một qui luật - phổ biến: qui luật giao tiếp, tiếp nhận văn hoá. Chẳng hạn vớ bi kịch Hămlét của nhà soạn kịch thiên tài người Anh W.Sêcxpia (1564-1616) có nguồn gốc cốt truyện từ một sa-ga (truyện dân gian) thời Trung cổ và có tham khảo nhiều vở diễn trong thời Phục hưng; vở bi kịch tình yêu Rômêô và Giuliét viết theo thể văn vẫn đan xen văn xuôi lại khai thác cốt truyện và đề tài từ một truyện bằng văn vần của nhà thơ Atơ Barúc (người Anh), song nguồn gốc trước đó lại là một truyện ngắn của tác giả người Ý: vở bi kịch nổi tiếng Ôtenlô cũng lấy môtíp từ một truyện ngắn trong tập truyện của một tác giả người Ý khác... Ở một trường hợp tương tự, kiệt tác Tu viện thành Pácmơ của nhà văn Pháp Xtăngđan (1783 - 1842) lại lấy cốt truyện từ một tập biên niên sử chép những sự kiện của thế kỷ XVI mà ông tìm thấy ở thành Rôma (nước Ý)... Hoặc giả với hình tượng Gian Đa, người nữ anh hùng của dân tộc Pháp trong cuộc chiến chống quân Anh xâm lược vào nửa đầu thế kỷ XV, về sau được phong vào hàng Thánh nữ, đã bước vào trang sách như một huyền thoại và được nhận thức theo nhiều cách khác nhau, có khi đến thành trái ngược. Nếu như ở một bộ phận nào đó, trong một giai đoạn nào đó, Gian Da bị coi như nữ quái, thì trong cách nhìn của nhà văn Anh B.Sô qua vở kịch Nữ thánh Gian, hoặc với cách hiểu của nhà viết kịch người Pháp J.Anui qua vở Chim sơn ca, thì Gian Đa quả thật là hình ảnh sinh động của người con gái tươi trẻ hồn nhiên, người anh hùng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Từ thực tế những hiện tượng trên cho thấy, nếu những tác phẩm gốc, nguyên mẫu thường mới chỉ là những phác họa những nguyên liệu mới được sơ chế thì những cốt truyện đó thông qua sự nhào nặn, nâng cấp của các nhà văn bậc thầy đã hoá thành những tác phẩm nghệ thuật lớn. Ở đây các nhà nghệ sì đà "phù phép" hoán cải cốt truyện, thay đổi vai trò các nhân vật, mở rộng dung lượng hiện thực, đưa vào trong đó ý nghĩa triết lý, sức khái quát cao và được thể hiện trong một hình thức nghệ thuật sinh động. Đến khi đó, người đọc thường chỉ nhớ tới tác phẩm sau mà ít khi tìm lại văn bản nguyên liệu kia. Trong đời sống văn hoá, chúng chỉ sống trong kí ức với tâm niệm "Ôn cố tri tân” hoặc trở thành đối tượng của các nhà sưu tập và nghiên cứu văn hoá cổ. Vấn đề đặt ra ở đây, với đối tượng là sự tiếp nhận cốt truyện trong phạm vi văn học viết, văn học trung đại có chủ thể sáng tạo, khi so sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân trên tất cả mọi phương diện như cốt truyện, nhân vật, nội dung xã hội, ý nghĩa triết lý, các phân đoạn và thứ tự biến động của các chi tiết, tình tiết... đều thấy sự khác biệt là không đáng kể. Quả thực, ở Truyện Kiều của Nguyễn Du có giản lược tên một số nhân vật phụ, chẳng hạn nói về nhà họ Chung, chỉ nêu:
Họ Chung có kẻ lại già, Cũng trong nha dịch lại là từ tâm thì trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có giới thiệu rõ người đó là Chung Sự, có con trai là Chung Cần, con gái là Tô Nương. Song sự khác biệt đó không làm thay đổi cốt truyện, cũng không phải là dấu hiệu sự khác biệt trong lý tưởng thẩm mỹ giữa Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân.
Chính vì lẽ đó mà cách giải thích việc Nguyễn Du không mô tả chi tiết sự kiện Tú bà truyền dạy "bảy chữ tám nghề" cho nàng Kiều, hay đoạn giản lược các chi tiết trừng phạt bọn Mã Giám sinh, Tú bà, Sở Khanh, Bạc Hạnh, Bạc bà một cách tàn khốc...
là bởi thi hào đã lược bỏ đi những đoạn miêu tả có tính chất tự nhiên chủ nghĩa và có hại đối với mỹ cảm của người đọc, rõ ràng chưa thật thuyết phục, chưa tính đến đặc trưng về mặt thể loại khi so sánh giữa hai tác phẩm thuộc về hai phương thức thể hiện khác biệt nhau. Đương nhiên trong cách nhìn của người hiện đại và nhìn theo một hướng nhất định thì sự mô tả những chi tiết cụ thể đó là thiếu mỹ cảm, song nếu xét trên phương diện tư duy nghệ thuật thì chúng lại hết sức có ý nghĩa, nhất là khi đặt chúng trong tương quan với nền văn học thời đại phong kiến vốn kiêng kị những đề tài "thấp", trần tục, bản năng và hướng về cái cao thượng, sùng bái những biểu tượng, điển cố, lối nói từ chương hoa mỹ. Ở đây khả năng thẩm thấu qua tấm màng lọc mỹ học Nho giáo, khả năng tái tạo hiện thực, phản ánh đời sống trần tục, hướng về đời thường là ưu thế của tác phẩm văn xuôi tự sự cần được lưu ý khi xem xét tác phẩm Kim Vân Kiều truyện. Điều quan trọng hơn, chính vì Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thuộc về thể tài văn xuôi, thiên về mô tả sự kiện, nó có điều kiện đi sâu miêu tả thực tại, khắc họa chân dung nhân vật một cách cụ thể, chi tiết hơn qua việc phối hợp các hình thức đối thoại - kể chuyện - phân tích tâm lý một cách tương đối tự do, linh động. Còn đối với Truyện Kiều của Nguyễn Du được thể hiện bằng văn vần, toàn bộ câu chuyện được tái hiện bằng ngôn ngữ thơ, vừa thông qua cảm xúc chuyển dịch của chủ quan nhà thơ trên cơ sở một tác phẩm cũ, vừa liên kết xây dựng văn bản mới với nguồn mạch cảm hứng trữ tình có nhiều thay đổi, đồng thời lại vừa phải tuân theo vần điệu, nhạc tính, hình ảnh và thể cách của thể thơ lục bát. Chính sự khác biệt này đã góp phần quan trọng quy định việc Nguyễn Du lược bỏ những chi tiết dài dòng và đồng thời tái hiện toàn bộ nội dung đó theo hướng chọn lọc, phù hợp với đặc trưng tư duy thơ ca.