TRUNG QUỐC là quốc gia láng giềng của Việt Nam, là quốc gia đa dân tộc (tộc người) ở châu Á. Trong các dân tộc của Trung Quốc, dân tộc Hán chiếm thành phần chủ yếu còn lại các dân tộc khác được gọi là dân tộc thiểu số (theo điều tra dân số năm 2000 người Hán là 1.137.386.112 chiếm 91,69%, các dân tộc thiểu số là 104 triệu người, chiếm 8,41%). Về phân bố tự nhiên người Hán tập trung cư trú tại vùng đồng bằng và thung lũng, các dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống tại vùng núi cao và biên giới, nên tuy dân số ít nhưng lại cư trú trên một diện tích rộng lớn chiếm tới gần 60% diện tích đất nước. Dân số dân tộc thiểu số của các tỉnh và khu tự trị thuộc vùng biên giới chiếm 50% dân số của các dân tộc thiểu số cả nước. Đặc điểm cư trú đã dẫn đến một thực tế là dân tộc Hán có trình độ kinh tế - xã hội phát triển cao hơn các dân tộc thiểu số. Các số liệu điều tra cho thấy vùng sinh sống của các dân tộc thiểu số có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng đất nước. Trong lịch sử hiện đại, Trung Quốc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa do đó chính sách dân tộc dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp chặt chẽ với tình hình thực tế của quốc gia. Vì vậy, trải qua gần 30 năm cải cách mở cửa, do chính sách phát triển kinh tế chấp nhận sự không đồng đều, Trung Quốc đã tạo ra một thực tế là trình độ phát triển kinh tế của miền Tây đặc biệt là vùng núi cao chênh lệch quá lớn so với miền Đông. Thu nhập của cư dân miền Đông với cư dân miền Tây và các tỉnh biên giới chênh lệch rất xa, dân số đói nghèo và các huyện trọng điểm đôi nghèo của Trung Quốc đều nằm ở các tỉnh miền Tây.
Đứng trước tình hình đó, vào những năm 90 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã đề ra chiến lược khai thác và phát triển miền Tây, nhằm từng bước đưa miền Tây tiến kịp các vùng kinh tế khác, đặc biệt là giảm bớt khoảng cách chênh lệch so với khu vực miền Đông. Bước sang thế kỷ mới, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc (8/11/2001) đã tái khẳng định: "Thực hiện chiến lược lớn khai thác và phát triển miền Tây, có quan hệ đến đại cục phát triển của cả nước, đến đoàn kết dân tộc và sự ổn định biên cương". Điều này khẳng định lại mục tiêu khai thác và phát triển khu vực miền Tây, xem đây là nhiệm vụ chiến lược trọng điểm trong thế kỷ XXI. Đồng thời Trung Quốc đã đề ra kế hoạch tổng thể về chiến lược khai thác phát triển miền Tây trong thời gian 50 năm, chia ra từng giai đoạn.
Giai đoạn I (2000-2010)
Mục tiêu chủ yếu là thông qua các hạng mục xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và bảo vệ môi trường sinh thái, bước đầu thực hiện mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư; hạn chế và khắc phục tình trạng xâm hại môi trường: Từng bước đưa kinh tế bước vào quỹ đạo phát triển lành mạnh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bảo đảm tốt các điều kiện sinh hoạt bình thường của nhân dân với các kế hoạch giúp đỡ về tài chính, xúc tiến các chương trình xoá đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề ăn no mặc ấm cho nhân dân của Nhà nước.
Giai đoạn II (2011-2030)
Trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được trong công cuộc xây dựng thể chế, miền Tây sẽ bước vào "thời kỳ tăng tốc". Mục tiêu phấn đấu trong giai đoạn này là phát triển một bước đáng kể toàn bộ các ngành sản xuất nông nghiệp và công nghiệp; thực hiện đô thị hoá trên 50% các vùng thuộc khu vực miền Tây.
Giai đoạn III (2031 - 1049)
Trong giai đoạn cuối cùng này, mục tiêu là thúc đẩy toàn diện công cuộc hiện đại hoá, trong đó một số vùng sẽ đi đầu trong công cuộc hiện đại hoá, còn các vùng còn lại sẽ đi đúng quỹ đạo của quá trình hiện đại hoá.
Mặt khác miền Tây là khu vực cư trú chủ yếu của dân tộc thiểu số chính vì vậy, chiến lược khai thác phát triển miền Tây thực chất là một chiến lược lớn khai thác và phát triển ở vùng dân tộc thiểu số. Vì thế, việc cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là tiếng nói có sức thuyết phục về ý nghĩa và kết quả của công cuộc cải cách mở cửa, mà còn là nhân tố hết sức quan trọng giữ vững cục diện hài hoà, đoàn kết, ổn định, an ninh chính trị tại khu vực này, nhất là các vùng ven biên giới, cũng có và làm tăng lòng tin vào Đảng, vào Chính phủ của đồng bào các dân tộc ít người. Đó là điều hết sức có lợi cho mục tiêu xây dựng một nước Trung Hoa đoàn kết, thống nhất và ổn định. Với mục đích giúp các dân tộc thiểu số trên vùng biên giới thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, cùng với nhiệm vụ thực hiện chiến lược Đại khai phát miền Tây, năm 1998 Uỷ ban dân tộc Trung ương đề ra Chiến lược hưng biên phủ dân với ý nghĩa là chấn hưng biên giới, phủ dự biến dân. Mục đích và mục tiêu phần đầu của Chiến lược này là "Hung biên, phủ dân, cường quốc, mục làn" (Nghĩa là làm cho biên giới hưng thịnh, vùng mạnh, nâng cao cuộc sống cho nhân dân vùng biên, làm giàu mạnh cho Trung quốc, hoa thuận với các nước láng giềng).
...