Trong mấy chục năm qua, với chính sách dân số phù hợp của Đảng và Nhà nước, sự thực hiện nghiêm túc của các cấp chính quyền và ý thức của mỗi người dân, việc kiểm soát mức sinh ở Việt Nam đã có những kết quả khả quan. Tỷ suất sinh của cả nước đã liên tục giảm. Nếu vào năm 1960, tỷ suất sinh thỏ là 4.39%, thì vào năm 1998 giảm xuống còn 1,99%. Tổng tỷ suất sinh cũng đã giảm từ mức 6,39 con/1 nữ ở tuổi sinh vào năm 1960 xuống còn khoảng 2,3 con vào năm 1999.
Tuy nhiên, quá độ suy giảm mức sinh ở nước ta diễn ra chưa đồng đều giữa các vùng và giữa các nhóm xã hội. Trong khi ở nhiều nhóm xã hội đã đạt đến mức sinh thấp, thì ở số nhóm xã hội khác, nhất là các nhóm tôn giáo, dân tộc vẫn duy trì một mức sinh cao. Điều đó cho thấy bên cạnh yếu tổ kinh tế, chính sách, thì văn hoá, lối sống, tín ngưỡng đã có ảnh hưởng đáng kể đến mức sinh. Trên cơ sở những dữ liệu thực nghiệm thu được về quả độ mức sinh ở một vùng công giáo rất đặc trưng ở nước ta, cuốn sách Tôn giáo và biến đổi mức sinh không chỉ làm rõ được vấn đề: Tại sao sự thay đổi mức sinh ở một số khu vực lại xây ra muộn hơn, chậm hơn ở một số khu vực khác trên cùng một mức độ phát triển, mà còn hướng đến trình bày mô hình tác động của tôn giáo đến mức sinh.
Do chỉ là nghiên cứu trường hợp trong một cộng đồng của một tôn giáo nhất định, nên những kết luận có tính khái quát còn hạn chế. Song, hy vọng cuốn sách sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho cán bộ và sinh viên các ngành khoa học xã hội khi học tập và nghiên cứu về các vấn đề tôn giáo và dân số, nhất là các lĩnh vực xã hội học tôn giáo, xã hội học dân số, dân số và phát triển.
Để tài liệu ngày càng hoàn thiện hơn, phục vụ bạn đọc tốt hơn, chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn.
Tác giả