Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng lớn về kinh tế biển với bờ biển dài trên 3.260 km, có vùng biển rộng trên 1 triệu km² (gấp hơn 3 lần diện tích đất liền), có vị trí địa kinh tế và địa chính trị đặc biệt. Biển chứa đựng nhiều tài nguyên to lớn để phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đáng chú ý là những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên khoáng sản và nguồn lực con người. Biển đã đem lại cho Việt Nam nhiều nguồn lợi lớn từ khai thác khoáng sản (nhất là dầu khí, than ven biển, làm muối), phát triển kinh tế hàng hải, khai thác hải sản, du lịch biển và phát triển các khu kinh tế ven biển. Việc khai thác nguồn lợi biển đã có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước. Các ngành kinh tế biển luôn chiếm tỷ trọng lớn trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Năm 2011, ước tính tỉ trọng các ngành kinh tế biển và liên quan đến biển chiếm khoảng 48% GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải (vận tài biển và dịch vụ cảng biển), du lịch biển,...
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến nay phát triển kinh tế biển của Việt Nam được đánh giá là chưa hiệu quả. Theo các chuyên gia nghiên cứu, Việt Nam chủ yếu khai thác lợi thể tĩnh theo hình thức khai thác tài nguyên thô, trình độ công nghệ thấp, chưa tạo được giá trị gia tăng lớn cho những ngành kinh tế từ biển. Khai thác hàng hải, cảng biển và du lịch nhìn chung ở trình độ thấp, sức cạnh tranh còn kém.
Để trở thành một quốc gia biển thì cần hội đủ ba thể mạnh là: (1) Mạnh về kinh tế biển; (2) Mạnh về khoa học biển; (3) Mạnh về thực lực quản lý tổng hợp biển. Nhận thức rõ vẫn để này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Điều này cho thấy quyết tâm của Việt Nam đi theo xu hướng trên. Theo đó, Việt Nam phấn đấu trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển. Để trở thành quốc gia mạnh về biển, một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu là phải mạnh về quản lý biển, tức là có chính sách quản lý biển hữu hiệu và có hệ thống cơ quan tổ chức khoa học.
Thế kỷ XXI được thế giới xem là “Thế kỷ kinh tế biển và đại dương”. Hướng ra biển - đại dương đang là khẩu hiệu chiến lược của nhiều quốc gia. Việt Nam là một quốc gia biển, có điều kiện thuận lợi trong cuộc tranh đua đó để phát triển đất nước, nên không thể bỏ qua xu thế này. Vì thế, Việt Nam không chỉ cần tổng kết kinh nghiệm phát triển kinh tế biển trong nước những năm qua, mà còn phải chú ý học hỏi kinh nghiệm nước ngoài. Kinh nghiệm của các nước Đông Á (như Trung Quốc, Malaysia, Singapore) rất đáng quan tâm nghiên cứu, bởi vì: Thứ nhất, đây là các quốc gia Châu Á có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam cả về kinh tế, văn hoá - xã hội, lẫn vị trí địa kinh tế; Thứ hai, các nước này, nhất là Trung Quốc, cũng giống như Việt Nam là nước đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường; Thứ ba, các nước này cũng giống như Việt Nam đều là những nước phát triển trung bình trong khu vực.
Công trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc, Malaysia, Singapore và bài học cho Việt Nam về phát triển kinh tế biển mà trọng tâm là phát triển kinh tế hàng hải (phát triển cảng biển và phát triển vận tải bằng tàu biển), khai thác khoáng sản và dầu mỏ, khai thác hải sản, phát triển du lịch biển đảo, phát triển các khu kinh tế ven biển để từ đó tìm ra được các vấn đề có tính quy luật trong phát triển kinh tế biển để vận dụng vào Việt Nam.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng đây là một đề tài rộng, do trình độ, thời gian, kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Tác giả
TS. Lại Lâm Anh