Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là một thể loại được công nhận muộn hơn các thể loại tự sự dân gian khác. Có nhiều lý do gây nên hiện tượng này: thứ nhất, do tính chất đặc biệt của nội dung, thể loại này gắn với lịch sử hoặc dã sử nên tính hư cấu được cho là giảm thiểu tối đa; thứ hai, do cảm hứng đặc biệt của người kể chuyện nên những câu chuyện được kể trong truyền thuyết thưởng gắn với tin ngưỡng và do vậy, gắn với diễn xướng nhiều hơn là đọc hoặc kể; thứ ba, do tính tự sự của các câu chuyện được kể không thật đa dạng, thể loại truyền thuyết nằm trong sự giao thoa khô tách bạch với thần thoại và truyện cổ tích; thứ tư, truyền thuyết dân gian sớm được biên soạn theo các "công thức" của thần tích hay được ghi chép và trở thành một bộ phận của văn xuôi và các thư tịch khác thời trung đại.
Phải đến cuối thế ki XX, khi có nhiều tài liệu sưu tầm truyền thuyết được công bố, giới nghiên cứu văn học dân gian mới công nhận sự tồn tại độc lập của thể loại truyền thuyết. Tuy nhiên, từ các truyền thuyết được sưu tầm trong dân gian, người đọc đã chứng kiến sự rời rạc của kết cấu, sự trùng lặp của cốt truyện, sự khô khan của cách kể các câu chuyện truyền thuyết, vì vậy, việc xác định đặc trưng thể loại truyền thuyết với tư cách là một thể loại văn học dân gian lại gặp không ít trở ngại. Nhưng cũng có một đặc điểm quan trọng là hơn bất cứ một thể loại văn học dân gian nào khác, truyền thuyết có sự gắn bó chặt chẽ với văn hóa dân gian; và như vậy, nghiên cứu truyền thuyết không thể không nghiên cứu văn hóa dân gian, hay nói cách khác, nghiên cứu tín ngưỡng, lễ hội dân gian. không thể không đề cập tới phương diện ngôn tử của niềm tin, đó là truyền thuyết.
Cuốn sách này được hoàn thành dựa trên kết quả nghiên cứu truyền thuyết từ góc độ văn học dân gian (với việc nghiên cứu truyền thuyết trên văn bản) từ trước đến năm 2000 và từ góc độ văn hóa học. nhân học (với việc nghiên cứu truyền thuyết, thực hành tín ngưỡng qua tư liệu điền dã) của những năm tiếp theo.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu truyền thuyết từ góc độ ngôn từ (khảo sát ở phương diện thể loại) và từ góc độ văn hóa dân gian, nhân học văn hóa nhưng cuốn sách này chắc chắn cần phải hoàn thiện thêm trong quá trình hiểu sâu hơn về thể loại truyền thuyết với tư cách là một thể loại văn học dân gian và với tư cách là phần lợi của tín ngưỡng, lễ hội dân gian đang bùng phát ở nước ta vải thập niên gần đây.
Rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc gần xa.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả