Châm cứu có nguồn gốc từ Trung Quốc, tài liệu Nội kinh, Nạn Kinh được công nhận là tài liệu gốc của Châm cứu. Sau này khi khai quật ngôi mộ cổ số 3 của Mã Vương đời Hán (168 trước công nguyên) vào năm 1973, các nhà Y học Trung Quốc đã phát hiện hai tài liệu quan trọng là: “Túc tỉ thập nhất mạch cứu kinh và Âm dương thập nhất mạch cứu kinh”.
Trong quá trình ứng dụng châm cứu, đến thế kỷ thứ ba sau công nguyên Hoàng Phủ Mật (215-282) đã viết cuốn Châm cứu Giáp ất kinh. Có thể coi đây là cuốn sách về Châm cứu hoàn chỉnh nhất, tiếp đó các y gia đời sau từng bước hoàn chỉnh dần. Đến thế kỷ 16-17 khoa học kỹ thuật bắt đầu phát triển, y học cổ truyền phương tây được gắn ngay với khoa học kỹ thuật và phát triển thành y học hiện đại ngày nay. Trong khi đó Đông y nói chung, châm cứu nói riêng vẫn tồn tại phát triển không gắn với khoa học kỹ thuật, vì vậy các sách về Châm cứu cho đến nay vẫn viết theo cách cổ truyền: Hệ thống kinh lạc, Hệ thống huyệt, thần khí, khí. Riêng về châm cứu chữa bệnh đã có tài liệu giảng dạy viết tên bệnh theo y học hiện đại và viết cách điều trị theo châm cứu.
Tuy nhiên các nhà khoa học không chỉ học tập ứng dụng châm cứu cổ truyền mà từ những năm 50 của thế kỷ XX đã để công nghiên cứu về kinh lạc, về huyệt, về châm cứu chữa bệnh.
Theo tài liệu Châm cứu học của Tôn Quang Kiệt và cộng sự (Nhân dân vệ sinh xuất bản xã 2004) khái quát có những kết quả nghiên cứu sau:
Về kinh lạc: Đã tập trung nghiên cứu khái niệm về kinh lạc, khẳng định có sự tồn tại khách quan của hiện tượng kinh lạc; nắm được quy luật hoạt động của hệ kinh lạc ở mức độ nhất định (trang 2).
Về thực chất của hệ kinh lạc đã có đến 18 giả thuyết (trang 103-109) thể hiện 3 quan điểm sau:
Kinh lạc là công năng đã biết của một hệ thống đã biết. Kinh lạc là công năng chưa biết của một hệ thống đã biết.
Kinh lạc là hệ thống điều hòa công năng tổng hợp của một hệ thống đã biết cũng bao gồm cả hệ thống chưa biết (trang 102).
Về huyệt: đã có những nghiên cứu về cấu trúc huyệt như: thấy có nhiều thực bào (tế bào lớn) ở huyệt Túc tam lý; thấy 9 huyệt của kinh phế có liên quan đến cấu trúc tế bào sợi 1 huyệt có liên quan đến mút màng xương 1 huyệt liên quan với thành mạch; Ở huyệt Nội quan cơ quan cảm thụ và đường dẫn truyền không có gì đặc biệt; hoặc sự phân bố tổ chức ở huyệt và chỗ không phải là huyệt khác nhau. Cụ thể là ở huyệt có một cấu trúc không gian lập thể, còn chỗ không phải là huyệt chỉ có một loại tổ chức cấu thành; Những nghiên cứu về huyệt và cấu trúc thần kinh (như hiệu quả của châm ở huyệt Nội quan và Thần môn như nhau vì chủ yếu đều thông qua dẫn truyền thần kinh để phát huy tác dụng, hoặc các đầu mút thần kinh sợi Cholinergic của cùng một nhánh thần kinh có thể được phân bố đến các tiểu động mạch và tổ chức dưới da vùng lân cận, quan hệ hình thái học của phản xạ đột trục này là một trong những nguyên nhân làm cho nhiệt độ tại chỗ của huyệt tăng cao); Hoặc những nghiên cứu về huyệt có liên quan đến thần kinh trung khu (như: Huyệt Giải khi có sợi thần kinh đi vào sừng sau tuy của thắt lưng 5 xương cùng 1, Huyệt Túc tam lý có sợi thần kinh đi vào sừng sau tủy của thắt lưng 4 xương cùng 3 từ đó lên hành tủy và các nhân nào khác lan đến cả nhân dây thần kinh sinh ba, trong điều kiện nhất định kích thích các huyệt Giải khê, Túc tam lý có thể gây được cảm giác dẫn truyền tư chân đến thân, đến mặt. Hoặc các huyệt Nội quan, Tâm du liên hệ với tim bằng hai đường một là thông qua đường thần kinh trung ương, hai là trực tiếp liên hệ thông qua các phân nhánh của các nơron cảm giác (trang 482, 483, 484). Có thể thấy rõ: Những nghiên cứu chưa khẳng định được thực chất của huyệt song đã đề cập đến sự liên quan của huyệt với thần kinh ngoại vi, thần kinh trung ương, thần kinh thực vật.
Về cơ chế tác dụng của châm cứu: Đã có rất nhiều nghiên cứu về cơ chế tác dụng của châm cứu như cơ chế tác dụng của châm cứu với các hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, tiết niệu, sinh dục, vận động, miễn dịch, thần kinh, chuyển hóa và mỗi hệ thống đều có một số bệnh cụ thể. Tổng hợp lại thấy đó là cơ chế thần kinh và cơ chế thần kinh thể dịch; song ở mỗi hệ, mỗi bệnh hoặc cơ chế thần kinh là chính hoặc cơ chế thần kinh thể dịch là chính, chưa có sự đề cập tới cơ chế tác dụng chung của châm cứu (trang 1158-1182).
Như vậy cho đến nay thực chất của hệ kinh lạc, huyệt và cơ chế tác dụng của châm cứu vẫn là vấn đề thời sự, đòi hỏi được tiếp tục nghiên cứu.
Sau khi được nghe GS Hoàng Bảo Châu, một bác sỹ y học hiện đại chuyên ngành thần kinh học có trên 40 năm học tập và điều trị bằng châm cứu, trao đổi và được xem bản thảo, tôi thấy tác giả đã để nhiều công sức nghiên cứu toàn diện cả 3 vấn đề trên, đã hệ thống lại nội dung về châm cứu của Nội kinh, Nạn Kinh và đã đưa ra nhận thức của mình về thực chất của hệ kinh lạc, huyệt và tác dụng của châm cứu trên cơ sở so sánh với khoa học y học hiện đại.
Việc hệ thống lại những nội dung về châm cứu của Nội kinh, Nạn Kinh được tiến hành công phu, tỉ mỉ. Tác giả đã sưu tầm những y văn có liên quan đến từng vấn đề rải rác trong hai tài liệu gốc, sắp xếp lại, dịch ra (có kèm phẩn âm Hán Việt và số trang trong sách để có thể kiểm chứng) thành một nội dung tương đối hoàn chỉnh; Người đọc có thể lĩnh hội được và thực hành theo tài liệu kinh điển. Tôi cho rằng phần này sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho những thầy thuốc học, thực hành nghiên cứu và dạy châm cứu.