Trong xã hội, nghề báo mang tính đặc thù, mỗi thông tin trên báo chỉ đều có ảnh hưởng nhất định tới dư luận xã hội. Nếu thông tin không chính xác có thể ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, đến một nhóm cộng đồng hoặc cá nhân. Vì vậy, trách nhiệm của báo chí là phải trung thực, độc lập và công bằng. Đạo đức chính là trách nhiệm, do đó nhà bảo Việt Nam nói riêng và nhà báo trên thế giới nói chung đều phải có trách nhiệm bảo đảm tính chân thật, khách quan của các thông tin đăng tải trên báo chí. Bảo chỉ là phương tiện để phản ảnh sự thật, phản ảnh cuộc sống, định hướng dư luận xã hội, tuyên truyền quan điểm, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước và thông qua đó thúc đẩy xã hội phát triển. Thực hiện đúng quy định đạo đức nghề nghiệp, người làm bảo sẽ tránh được những biểu hiện tiêu cực trong cơ chế thị trường, giữ vững lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với lực lượng bảo chỉ cách mạng nói chung và đối với mỗi người làm bảo nói riêng.
Đạo đức nghề báo hình thành nên quy tắc tác nghiệp trong nghề báo, và ngược lại, quy tắc nghề nghiệp cũng sẽ góp phần xây dựng đạo đức nghề bảo. Những điều đó song hành và thẩm sâu trong mỗi suy nghĩ lẫn hành động trong quy trình tác nghiệp lấy tin và xử lý nguồn tin trong nghề báo. Tinh tuân thủ pháp luật và cái tâm là hai yếu tố tạo nên công dân tốt trong một nhà báo giỏi. Để hướng tới mục đích chung là phục vụ độc giả, mang lại cho bạn đọc những tin tức trung thực nhất, các tổ chức, quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã xây dựng những quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Các bản quy tắc đạo đức nghề bảo không phải áp dụng được trong mọi tình huống mà nó có ý nghĩa như sự hướng dẫn hoặc khuyến khích nhà bảo tìm tòi để có hành động dùng đắn, công bằng, trung thực và nhân đạo.
Nhằm cung cấp tài liệu nghiên cứu, tham khảo về các quy tắc, chuẩn mực đạo đức nghề bảo trên thế giới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới của TS. Nguyễn Thị Trường Giang.
Phần thứ nhất của cuốn sách phân tích về hoàn cảnh ra đời; những nguyên tắc, tiêu chuẩn chung cũng như phân tích những điểm riêng biệt (bản sắc) trong các bản quy tắc đạo đức nghề báo. Bên cạnh đó, cuốn sách còn so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa bản quy tắc đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam với các bản quy tắc đạo đức nghề bảo trên thế giới; phác họa Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay. Đa phần nội dung của các bản quy tắc dành cho lĩnh vực báo chỉ trong đó có cả bảo in, báo mạng điện tử và phát thanh - truyền hình, song cũng có bản quy tắc dành cho lĩnh vực xuất bản nói chung.
Điểm đặc trưng của 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo của các quốc gia, vùng lãnh thổ, các cơ quan báo chí, các tổ chức và hội nghề nghiệp của nhà báo được lưu hành rộng rãi trên thế giới đăng trong phần thử hai của cuốn sách là: (1) Ra đời sớm nhất, (2) Ra đời muộn nhất, (3) Ngắn nhất, (4) Dài và chi tiết nhất, (5) Có thời gian xây dựng lâu nhất, (6) Có sức ảnh hưởng và sự tham gia xây dựng của nhiều tổ chức thành viên nhất, (7) Mang tính địa phương và dấu ấn quốc gia nhất, (8) Có khoảng cách từ bản đầu tiên đến bản sửa đổi dài nhất, (9) Có khoảng cách từ bản đầu tiên đến bản sửa đổi ngắn nhất, (10) Có số lần sửa đổi nhiều nhất. Đó cũng là lý do vì sao tác giả lựa chọn đăng 100 bản quy tắc trong số hàng trăm bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới.
Cuốn sách sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên chuyên ngành báo chí, truyền thông giảng viên các trường đại học, học viện có liên quan đến lĩnh vực bảo chỉ; các nhà nghiên cứu, các phóng viên, biên tập viên, những người đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí, truyền thông và những ai quan tâm đến vấn đề này.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 2 năm 2014
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT