Mỗi dân tộc đều có những lễ hội, có các điệu múa hát dân ca truyền thống. Đó là vốn văn hóa nghệ thuật mang tính bản sắc để tồn tại và phát triển. Một lễ hội bao giờ cũng được tổ chức đảm bảo yếu tố phần lễ và phần hội. Phần lễ mang tính tín ngưỡng, thiêng liêng; phần hội là các hình thức ca hát, các trò chơi dân gian cổ truyền, dễ thực hiện, nhiều người tham gia.
Cộng đồng dân tộc Tày - Nùng vùng Việt Bắc trước đây vào ngày xuân (tháng Giêng) thôn bản nào cũng tổ chức một ngày hội “Lồng Tồng” - xuống đồng. Hội “Lồng Tổng” mang lại nếp sống văn hóa phong phú, vui tươi, lành mạnh. Trong lễ hội “Lồng Tồng” của người Tày bao giờ cũng có hát dân ca “Lượn Thương” (slương). Đây là kho tàng thơ ca dân gian đồ sộ của người Tày! “Lượn Thương” được hát theo một nề nếp quy trình chặt chẽ lôi kéo người hát. Cộng đồng người Tày trước đây, ai cũng đều mong xuân đến để đi “lin hội lồng tồng” vui chơi và hát “Lượn Thương” giao duyên.
Bản Tinh - Bản Nà là một liên danh, bao gồm 3 xã: Yên Cư, Yên Hân và Bình Văn, thuộc huyện Chợ Mới, nằm ở phía Đông Nam tỉnh Bắc Kạn. Cư dân ở đây hầu hết là người Tày, chiếm trên 90% dân số, dòng họ chính là họ Ma chiếm 60%, ngoài ra có họ Nguyễn, Lý, Phan, Lê và Trình. Người Tày có mặt ở đây từ lâu đời, vì thế Văn hóa truyền thống của đồng bào thuần nhất, ít có sự tiếp biến, hòa nhập. Tuy nhiên, trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, có đường ô tô 256 đi qua và sự hội nhập quốc tế thì văn hóa truyền thống cũng bị mai một, thậm chí bị lãng quên. Trong đó hát lượn và lễ hội “Lồng tồng” của bà con ở đây cũng trong tình trạng như vậy.
Với công trình này, chúng tôi cố gắng sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch nhằm tái hiện lại văn hóa lễ hội “Lồng Tồng” và hát “Lượn Thương” với mong muốn lễ hội được phục hồi tôn tạo ở mọi thôn bản Việt Bắc. Chỉ có vậy mới góp phần giữ gìn giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc. Bảo tồn, tôn tạo lễ hội “Lồng Tồng” còn góp phần xây dựng con người mới có đạo đức, văn minh; góp phần phát triển du lịch rộng khắp đến mọi thôn bản Việt Bắc.