Sinh sản là một chức năng trọng yếu của sự sống. Đó là quá trình sinh học rất phức tạp và tinh tế, đáp ứng cho sự sinh sôi nẩy nở của động vật. Ngay từ xưa, người Hy Lạp đã có vô số ý kiến về chủ đề sinh sản. Rồi những nhà Bác học phương Đông đã góp phần nâng cao những hiểu biết về quá trình này.
Từ một thế kỷ nay, người ta đã sử dụng những khoa học hiện đại trong nghiên cứu quá trình sinh sản (thần kinh học, hoá sinh học, sinh học mô bảo, sinh học phân tử, v.v... ) để tìm hiểu thấu đáo các cơ chế hoạt động có liên quan đến bản chất của sự sinh sản. Những nỗ lực này đã đưa lại những ứng dụng thực tiễn như thụ tinh invitro, truyền cấy phôi, gây có chửa đổng loạt trong các đàn gia súc, xác định tính biệt của tinh trùng và của phôi, chuyển gen, áp dụng các biện pháp mới về đình sản... Những thành tựu được công bố trong những năm qua về Cloning (phiên bản đồng loạt theo phương pháp nhân đơn tính từ tế bào phôi) và nhất là thành tựu làm sôi động thế giới gần đây của I. Wilmut và cộng sự (tháng 2/1997) (tạo một cửu con Dolly từ tế bào tuyến vú cừu mẹ), đã làm cho khoa học sinh lý sinh sản có những bước tiến mới.
Từ trước đến nay, người ta chia động vật theo ba loại hình sinh sản:
- Đẻ trứng (như: chim, cá, lưỡng thể): trứng lớn, số lượng nhiều, lượng lòng đỏ dồi dào;
- Đẻ thai trứng (như bò sát): trứng có nhiều lòng đỏ, được bọc vỏ, ấu trùng nở bên trong cơ thể mẹ;
- Đẻ con (loài có vú, trừ loài đơn huyệt): trứng có ít lòng đỏ, số lượng ít, thụ tinh bên trong, thai phát triển trong dạ con,
Trong thế giới động vật có hàng nghìn loài có vú, nhưng quãng 25 loài được nghiên cứu kỹ về sinh lý sinh sản.