Các văn bản hương ước cổ của tỉnh Hưng Yên ghi bằng Hán - Nôm hiện còn nằm tản mát trong nhiều loại sách của kho sách Hán - Nôm (Viện Hán - Nôm) ước tính có khoảng trên 100 văn bản. Do thời gian có hạn, chúng tôi sơ bộ tuyển dịch 15 văn bản có niên đại từ Cảnh Hưng 28 (1767) đến Khải Định 3 (1918).
Qua các văn bản Hương ước cổ của tỉnh Hưng Yên, ngoài những điều mà chúng ta có thể bắt gặp ở nhiều hương ước thuộc các tỉnh khác, hương ước Hưng Yên xưa còn cho thấy một số nét riêng đáng chú ý:
1. Lệ trọng xí (trọng người tuổi tác) được thể hiện ở nhiều văn bản, chẳng hạn ở hương ước xã Cát Lư, tổng Đại Từ, huyện Văn Lâm, điều 4 quy định rõ: “Lệ dâng cỗ cúng thần, số lộc kính các bậc cao tuổi nhất bánh dày 5 chiếc, biếu các bậc độ tuổi kế tiếp 3 chiếc, bánh chưng 2 chiếc... Các bậc 60 tuổi trở lên bất luận có chức sắc hay không có chức sắc, biếu mỗi người bánh dày các loại 3 chiếc, bánh chưng 2 chiếc. Các bậc từ 50 đến 59 tuổi, người nào có chức sắc mỗi người bánh dày 3 chiếc, bánh chưng 2 chiếc, nếu không có chức sắc mỗi người bánh dày 1 chiếc, chuối tiêu 1 quả”. Tục lệ xã Nghĩa Lộ, tổng Đại Từ, huyện Văn Lâm, điều 73 ghi: “Bản xã Nguyễn Kiến Mười là bậc thượng lão, phàm có những sự vụ công tư dân xã đều mời riêng một chiếu (một mâm). Nếu người nào mạo muội ngồi cùng chiếu thì dân sẽ tróc thu tiền 6 quan, trầu cau 30 miếng để phân biệt tôn ti. Nay lệ.
2. Việc tang ma cũng là việc được chú trọng đặc biệt. Cũng ở hương ước xã Cát Lư, điều 19 quy định khi có việc tang thì cả làng từ 10 tuổi trở lên đều phải đi đưa đám. Nét đẹp ở đây là nếu gia chủ có điều kiện mời ăn uống cỗ bàn to nhỏ thi tuy nghi, mà nếu “không mời ăn uống, thi dân xã chỉ uống nước ăn trầu rồi về, không quở trách gì”.
Cũng về việc tang, hương ước giáp Đông Nhất, thôn Văn Xá, xã Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Bình Giang lại quy định rất chi tiết về thủ tục, cách thức đưa tang, theo điều 18: “Trong giáp nếu có việc tang ma cần người hộ tống cốt sao cho tề chỉnh. Mọi người cần chuẩn bị trước một ngày, tập trung ở nhà đương cai, hoặc tiện trú gần nhà có đám để nghe cho quen hiệu lệnh rồi chia tay nhau các việc. Những người tham gia giúp nhà hiếu có 2 vị trưởng, một vị cầm chiêng hiệu, một cầm kèn hiệu. Những người còn lại cùng giúp các việc. Người nào đến 50 tuổi đều được miễn, chỉ giữ lại một người cuối cùng trong số đó để trông nom cuốc xẻng đặt ở huyệt... Nếu ban đêm mà thiên cữu thì nhà hiếu đã có trình trước với đương cai cứ đúng giờ thì phát hiện 3 hồi 3 tiếng. Bà con trên dưới theo thứ tự từng hàng lạy 2 lạy rồi vào thiên cữu. Đợi cho xong mọi việc lại trở về nơi cũ. Đến khi phát dẫn cũng tựa như vậy. Còn việc phù cữu, thăng dự, phù dự, hộ tống việc khởi chỉ đều theo hiệu lệnh... Các hiệu lệnh chỉ khởi trong các tiết được liệt kê dưới đây: Các tiết khởi chỉ, thiên linh cữu, hễ còn 3 khắc đến giờ thì nhà đòn dẹp đi cho tịnh rồi phát hiệu lệnh 3 hồi, chấp hiệu lên đứng song song trên đầu làm hai hàng mà bản giáp thì đứng kế theo cho chinh đã. Hễ khi vào thị thiên linh cữu, chấp hiệu gióng chiêng ở ngoài mà kéo vào, bằng đã thấy tắt hồi chiêng thì đứng lại, nghe đánh một tiếng chiêng nữa thì các danh dự vào thiên cữu. ở sau thì đứng giăng ngang lên hai ba hàng, cứ chấp hiệu mà hành lễ rồi lại đứng lên ngay đánh hai tiếng chiêng thì lại đứng xa ra làm hai hàng song đầu như cũ nghe đánh một tiếng chiêng nữa thì từ từ mà kéo vào làm hai bên mà chấp hiệu chiêng thì cứ gióng ba từ từ mà bước, bằng đã hầu đến nơi linh cữu thì chấp hiệu ách chiêng cho biết. Hễ thấy tắt tiếng chiêng thì đứng lại nghe đánh lại một tiếng chiêng nữa thì hai bên day mặt lại cùng hướng vào linh cữu. Nghe đánh mã la 3 tiếng, 2 tiếng trước thì ngồi xuống bắt tay vào cho chỉnh, nghe đánh 1 tiếng nữa thì đứng dậy cử chiêng giọng ba phủ ra mà bước, bằng thấy tắt tiếng chiêng thì đời lại, thấy đánh một tiếng mã la thì đặt xuống, sửa sang cho hãn hoi rồi lại chiếu thứ ra về nơi trú sở... (Còn một tiết nữa có những quy định về nghi thức đưa đám cũng khá dài, có lẽ cũng vào khoảng một trang giấy như vừa nêu ở tiết trên).