Từ năm 1653, dưới triều Chúa Nguyễn Phúc Tần (trị vì 1648 - 1687), vùng đất Khánh Hòa trở thành vùng đất của Đại Việt. Dinh đầu tiên của vùng đất là Dinh Thái Khang được đặt tại thị xã Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa ngày nay. Di dân từ các tỉnh ngoài vào vùng đất mới chủ yếu cư trú sinh sống làm ăn ở các vùng ven sông, ven biển ở huyện Vạn Ninh, thị xã Ninh Hòa ngày nay, còn ở vùng phía Nam thuộc phủ Diên Khánh (nay là TP Nha Trang, huyện Diên Khánh, huyện Khánh Vĩnh, huyện Cam Lâm, TP Cam Ranh, huyện Khánh Sơn) di dân cư trú không nhiều. Toàn miền đất dinh Thái Khang, sau đó đổi lại dinh Bình Khang thời Chúa Nguyễn là miền đất còn hoang vu, núi rừng trùng điệp... Sau đó là cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh xảy ra liên tục trên mảnh đất này khiến cho đời sống dân cư, các mặt về kinh tế không phát triển được. Mãi sau Gia Long lên ngôi, chấm dứt chiến cuộc, vùng cư trú mới mở về phía Nam của tỉnh ngày càng nhiều, nhất là từ khi tỉnh lỵ Khánh Hòa dời về Thành Diên Khánh.
Rừng núi vùng đất Khánh Hòa thời ấy chiếm 8 - 9 phần diện tích toàn tỉnh, là nơi ẩn chứa nhiều lâm sản, thú rừng, là nguồn sống cho đồng bào miền núi cũng như đồng bảo miền xuôi, là nguồn cung cấp những nguyên liệu phục vụ cuộc sống hàng ngày, là nơi tìm kiếm thực phẩm cứu đói trong những ngày giáp hạt, những năm đói kém, mất mùa.
Loại hình hái lượm và săn bắt của người dân ở Khánh Hòa cũng như người dân ở trong nước có từ rất sớm. Người dân không những hái lượm những loài thực vật, săn bắt thủ trên rừng mà còn nhặt bắt các loài nhuyễn thể, côn trùng, lưỡng thể, các động vật bé nhỏ và cả các loài thủy sản: tôm, tép, trai, ngao, sò, ốc, hến..., đánh bắt cá trên sông trên biển.
Đặng Nghiêm Vạn, trong tác phẩm Văn hóa Việt Nam đa tộc người đã cho rằng lượm bắt: “Là loại hình kinh tế chiếm đoạt sớm nhất và cũng dai dẳng nhất còn tồn tại ở miền thôn dã, kể cả những nước công nghiệp phát triển cao (Hiện nay, ở châu Âu vẫn tồn tại tục lệ lượm hải các loại hạt dẻ, các loại nấm trong rừng, các thứ hoa dại, các dược liệu). Ở nước ta, lượm bắt chiếm một vị trí rất đáng kể vì thiên nhiên ưu đãi cung cấp cho con người mùa nào thức nấy, thật đa dạng và phong phú. Ở miền núi hay như ở đồng bằng trước đây, con người ra khỏi nhà là đã có thủ để lượm bắt". Người dân tộc ở miền núi “việc săn bắn và hải lượm còn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong đời sống con người "
Ngày nay, xã hội phát triển, đời sống lượm bắt ngày càng thu hẹp. Con người biến rừng rậm thành nương rẫy, đưa các giống cây hoang dã về trồng gần nhà, chiếm dần từ kinh tế chiếm đoạt thành kinh tế sản xuất. Càng ngày nạn phá rừng càng khốc liệt, tài nguyên rừng dần cạn kiệt, những hình thức hải lượm những sản vật rừng, những cách gài bẫy giăng lưới săn bắt thú rừng của một thời xa xưa không còn nữa.
Chính vì thế chúng tôi dày công tìm hiểu, ghi chép lại những hình thức hái lượm, săn bắt với ước nguyện thế hệ này và mai sau thấy được sự phong phủ của sản vật rừng của một thời xa xưa, để thấy được cha ông đã nhờ rừng, giữ rừng mà sinh sống như thế nào.
Những ghi chép không phải để cổ vũ, bày cách cho con người ngày nay để phá rừng, giết hại những con thú quý hiếm, vì thực tế, hiện nay rừng không còn gì để khai thác, luật pháp lại có những nghiêm cấm. Người dân ngày xưa lấy của rừng rưng rưng nước mắt chứ không phải dễ dàng gì, nhưng lấy của rừng mà không tận diệt rừng, lấy của rừng khi cần thiết, lấy đủ nhu cầu chứ không tàn phá rừng cho cạn kiệt như ngày nay.
Việc hái lượm và săn bắt rừng được ghi chép lại trong tập này có thời điểm đầu thế kỷ 20 trên vùng đất Khánh Hòa, có những người còn sống kể lại, có một số ít tài liệu sách báo ghi chép, tuy không đầy đủ nhưng cũng mong rằng góp một phần nào cho thế hệ này và mai sau những tri thức cần thiết.
Ngoài những lời kể của những người đã từng tham gia vào việc hái lượm, săn bắt ngày trước ở trong tỉnh mà chúng tôi đã trân trọng ghi phương danh trên trang đầu công trình này, chúng tôi còn tham khảo quyển sách của nhà nghiên cứu dân gian Trần Sĩ Huệ ở Phú Yên Dây rừng và chim thủ ở cao nguyên Vân Hòa tỉnh Phú Yên). Quyển sách đã cung cấp cho chúng tôi những tài liệu quý để từ đó có thể so sánh sự khác nhau của những phương cách săn bắt thủ rừng, chim rừng ở một tỉnh liền kề, giúp nhiều cho sự hiểu biết cho chúng tôi về những gì không còn ở ngày hôm nay.
Và chúng tôi cũng không thể không tham khảo một công trình công phu, giá trị đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Kỹ thuật năm 1996, một giải thưởng cao quý trao tặng Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi với tác phẩm Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Tài liệu quý giá này đã cho chúng tôi rõ về những dược liệu ẩn chứa trong những sản vật và những thú chim rừng mà người dân hải lượm và săn bắt. Những kiến thức và những kinh nghiệm chữa bệnh từ cây trái, chim thủ dân gian này đã có từ lâu trong dân gian, cho nên ta không lạ gì người dân có người chuyên hái lượm và săn bắt những sản vật, chim thú rừng mang những dược liệu quý về tự chữa bệnh, tự bồi bổ hay bán cho các nhà thuốc đông y.
Có những ghi chép, có những tham khảo của những người, những tác giả, tác phẩm đáng tin cậy, nhưng những gì trình bày, miêu tả trong tập Hải lượm và săn bắt của người dân Khánh Hòa xưa này không khỏi có những sai lầm, thiếu sót. Mong được góp ý và sửa chữa, bổ sung. Thành thật cảm tạ.