Người Chăm có lịch sử ngôn ngữ chữ viết lâu đời và một kho tàng di sản văn hóa phong phú, đa dạng. Hiện nay, họ còn bảo lưu phong tục tập quán mang đặc thù bản sắc văn hóa riêng thông qua tín ngưỡng, tôn giáo, đã thu hút nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và đã có nhiều công trình được công bố trên nhiều lĩnh vực: Bi ký, ngôn ngữ, chữ viết, lịch sử, truyện cổ... Tuy thế, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu và đáp ứng nhu cầu bạn đọc muốn tìm hiểu về văn hóa Chăm, nhất là về phong tục tập quán của người Chăm. Đối tượng quan trọng nhất trong phong tục tập quán của người Chăm là tục tang ma của người Chăm Bàlamôn (Chăm Ahiêr).
Tục tang ma của người Chăm là công trình đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức, vì nó được người Chăm xem là “hành trình cuối cùng của đời người ở cõi trần” rất nhiều nghi lễ phức tạp và tốn kém nhưng chính nó đã góp phần tạo cho nền văn hóa Chăm phong phú và đa dạng cả về giá trị nhân văn và nhân sinh quan của người Chăm. Công trình này chỉ dịch và giới thiệu các bài kinh về tục tang ma của người Chăm Bàlamôn, một phần nhỏ về tục tang ma.
Nội dung gồm 3 phần:
Phần I: Khái quát đặc điểm cư trú, văn hóa, xã hội và tục tang ma của người Chăm ở Việt Nam.
Phần II: Giới thiệu và tóm lược nội dung các bài kinh.
Phần III: Biên dịch, gồm 2 phần:
1. Phần phiên âm bảng ngữ bằng chữ Latinh;
2. Phần dịch nghĩa và chú thích.
Ngôn từ trong các bài kinh ở nhiều câu mang tính ẩn dụ, nhiều từ cổ, lời lẽ bóng gió (an bangu) rất khó hiểu, nhiều câu chúng tôi chỉ dịch ý, tuy cố gắng nhưng không tránh khỏi sai sót, mong quý độc giả đọc và góp ý để được hoàn thiện hơn.
Để hoàn thành công trình này, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các vị chức sắc Chăm, cả sư: Hải Quý, Hán Bằng, Trượng Vân; phó cả Quảng đại Thương và các ông diễn xướng trong tục tang ma như: Trượng Văn Ngọt, Phú Hữu Tỏ, Đàng Năng Bình đã cung cấp tư liệu và giải thích những lời ẩn dụ. Đặc biệt là ông Haji Miêu Ngọc Dựng đã truy gốc từ nghĩa A Rập trong các bài kinh và tư liệu điền dã nghiên cứu thực địa ở vùng người Châm Nam Bộ (thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang) và người ở Chăm ở hai tỉnh Bình Định, Phú Yên năm 2004.
TÁC GIẢ