Chúng tôi đi vào để tài này với tư cách một người nghiên cứu ngôn ngữ học chứ không phải với tư cách một người nghiên cứu văn học. Sau khi khảo sát sơ bộ ảnh hưởng của tiếng Hán giai đoạn 10 thế kỉ đầu tiên sau Công nguyên, chúng tôi đặt vấn đề, muốn tìm hiểu xem thử, từ lúc - Việt Nam bước vào kỉ nguyên độc lập tự chủ, cái vốn tri thức Hán học của tầng lớp sĩ phu nước ta, qua các triều đại, đã ảnh hưởng như thế nào đến truyền thống văn Nôm và nhất là đến tiếng Việt hiện đại, ảnh hưởng đó nhất định là phải có do hiện tượng song ngữ. Muốn giải quyết câu hỏi đó, cần nghiên cứu, gỡ dần, rất nhiều mặt. Nhưng đối với giai đoạn khởi đầu sau khi nước nhà giành được độc lập tự chủ, tức giai đoạn Lí Trần, thì chúng tôi thấy cần phải khảo sát trước tiên các tác phẩm viết bằng chữ Hán do người Việt Nam ta tự viết: chúng tôi thấy sở dĩ chọn Nguyễn Trung Ngạn với Giới Hiên thì tập là vì lí do đó.
Tất nhiên chúng tôi cũng phải dành một chương để giới thiệu sơ qua về tiểu sử tác giả và tác phẩm. Về tiểu sử Nguyễn Trung Ngạn, ngoài việc sử dụng tư liệu hiện biểi, chúng tôi sẽ cố gắng giới thiệu thêm một nguồn thông tin mới : 2 bản gia phổ của 2 dòng họ tự xưng là hậu duệ của cụ : một ở Hưng Yên và một ở Nghệ An. Về Giới Hiên thì tập, sau khi nói qua về tình trạng văn bản số A - 601 hiện lưu giữ ở Viện Hán Nôm, chúng tôi sẽ gắng tách phần thơ đi sứ với phần thơ làm trong nước, và trong mỗi phần đó sẽ cố gắng gợi lên những khả năng phân loại theo thời gian sáng tác.
Chương II sẽ dành cho việc điều tra cơ bản về cái vốn chữ Hán dùng trong tác phẩm. Chương này có cái khô khan của nó, nhưng đó là một chương cần thiết, làm cơ sở cho các chương sau. Để tránh bớt sự khô khan cho các bạn đọc, chúng tôi sẽ cố gắng hạn chế đến mức tối đa việc công bố tư liệu, chỉ trình bày kết quả điều tra ở những phương diện nào xét ra thật cần thiết: ví dụ về các nhóm vẫn, về tần số xuất hiện của từng chữ.
Sau đó là chương nói về thi pháp của Nguyễn Trung Ngạn. ở đây chúng tôi chỉ chọn hai trọng điểm : vấn đề gieo vần và vấn đề dùng những câu chỉ có 6 chữ. Sở dĩ chọn hai trọng điểm này là vì chúng có thể, theo chỗ chúng tôi nghĩ, soi sáng phần nào cho những trường hợp gieo vẫn hơi đặc biệt thuộc các giai đoạn sau, và soi sáng cả cho lối thơ ta quen gọi là lục ngôn thể thỉnh thoảng gặp ở thơ Nôm Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm v.v.
Chương tiếp theo nói về từ ngữ trong Giới Hiên thi tập. Trong chương này, chúng tôi sẽ lần lượt nói về nguồn gốc kho từ ngữ của nhà thơ, mới quan hệ giữa những chữ có tần số cao với các chủ để nội dung mà nhà thơ ưa thích, và sau đó - thông qua những gì nhà thơ còn để lại cho tiếng Việt hiện nay - là nói về tầm quan trọng của di sản giai đoạn Lí - Trần, nhất là di sản về cách đọc của một khối lượng chữ rời hết sức cơ bản trong Hán ngữ.
Chương cuối cùng trong phần khảo sát của chúng tôi nói về ngữ pháp. Chúng tôi sẽ đối chiếu để thấy rõ cái nền tảng ngữ pháp thơ Nguyễn Trung Ngạn chính là ngữ pháp thơ Đường; đồng thời cũng sẽ gắng nêu lên một số đặc điểm cú pháp thường thấy ở những câu thơ 5 chữ, 7 chữ tả tình và tả cảnh của Nguyễn Trung Ngạn.
Sau phần khảo sát với 5 chương trên, chúng tôi cũng đã tuyển thơ của tác giả. Phần thơ làm trong nước được dịch trọn vẹn, còn phần thơ đi sứ thì chúng tôi chỉ chọn dịch hơn hai chục bài, vì phần này quá nhiều, và vì đề tài này ta đã từng gặp ở nhiều nhà thơ khác (Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích chẳng hạn).
Tất cả những gì trình bày trong tập này vốn là một phần nằm trong hồ sơ nghiên cứu của chúng tôi về đề tài lịch sử tiếng Việt. Một số bạn bè khuyên nên tách riêng ra để đưa in. Vì sợ còn nhiều sai sót nên trước khi chuyển nhà xuất bản chúng tôi đã nhờ một số chuyên gia góp ý như giáo sư Vương Lộc về lịch sử tiếng Việt, giáo sư Ngô Đức Thọ về Hán Nôm, giáo sư Nguyễn Khắc Phi về văn học Trung Quốc. Riêng đồng chí Nguyễn Quốc Siêu khi biên tập đã góp cho chúng tôi nhiều ý kiến sâu sắc và nhiều tài liệu quý.
Tác giả