Tiền Hán thư còn giữ một danh mục các quyển sách được biên soạn vào khoảng năm thứ 6 trước Công nguyên, trong đó các quyển sách của Thư viện Hoàng gia được xếp thành 7 loại. Loại thứ nhất là những tác phẩm cần thiết để giáo dục tầng lớp nho sĩ: trong số này, những tác phẩm được đánh giá cao nhất gồm những quyển đã được Khổng tử chọn, được coi là đại diện lý tưởng của cổ nhân trong tất cả tính hoàn mỹ của nó, những quyển khác được xem như là tác phẩm của chính nhà hiền triết lỗi lạc. Các tác phẩm thuộc lớp thứ nhất này được gọi là Kinh, thường được dịch là Kinh điển. Trong loại thứ hai là những tác phẩm của các nhà văn (t), những nhà triết học hay bác học được xếp thành những “trường phái” (gia) trong đó những trường phái chính là: Nho gia, tức là những tác giả Nho giáo (trong số này có Mạnh tử, lúc bấy giờ vẫn chưa được xếp vào loại Kinh); Đạo gia nghĩa là Đạo giáo triết học được đại diện chủ yếu bởi Lão tử và Trang tử, Âm Dương gia, loại sách rất lý thuyết, tập hợp những tác phẩm (tất cả đều không còn), bàn đến những chủ đề rất đa dạng như triết học lịch sử, lịch háp và các kỹ thuật bói toán; Pháp gia, tiêu biểu bởi Hàn Phi tử; Danh gia, tập hợp các nhà logic học và các nhà ngụy biện; Mặc gia, cuối cùng là một trường phái gọi là Tạp gia, trong đó có hai tác phẩm quan trọng tổng hợp các ý kiến và các hiểu biết vào cuối thời kỳ cổ điển là Lã Thị xuân thu và Hoài Nam tử.
Chính các tác phẩm hiện còn của hai bộ phận này, nói khác đi của các “Kinh” và các “Từ” làm thành những cội nguồn chính của mọi sự nghiên cứu về tự tưởng Trung Hoa cổ đại. Là công trình của các nhà thư mục học, sự phân loại các nhà tư tưởng thành “trường phái” chắc chắn không hoàn toàn phù hợp với thực tế cổ xưa. Nhưng chúng ta cũng chỉ biết rất ít về vị trí trong thực tế của các “trường phái” triết học. Chắc chắn có những nhóm tôn sư và môn đệ ít nhiều quan trọng về mặt số lượng, hay tương đối nhất thời xét về mặt truyền thống. Những người quan trọng nhất và có ý thức nhất là những người cho mình theo lời giảng dạy của Khổng tử và Mặc tử; còn về các tác giả khác như các Đạo gia và các Pháp gia thì không chắc họ cảm thấy mình có thuộc cùng một “trường phái” hay không.
Cho đến thời gần đây, người Trung Quốc không có những thuật ngữ tương ứng với những từ như “triết học” hay “triết gia”. Trong mỗi trường phái (gia, “gia đình”), thì ông thầy (tử, hay phu tử) dạy các môn đệ (đệ) đến học với mình; hay đến gặp các vương công mà ông ta tìm thấy một sự giáo huấn (giáo), một học thuyết hay một phương pháp (đạo) ứng xử và cai trị được xem là có hiệu lực nhất, bởi vì phù hợp nhất với trật tự tự nhiên (Đạo). Mối quan tâm của đa số các nhà triết học Trung Hoa bao giờ cũng hướng về luân lý và nghệ thuật cai trị. Nói chung, tư tưởng của họ chủ yếu có tính chất nhân văn và ít thiên về tự biện siêu hình. Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng đối với họ, mặt nhân văn không bao giờ có thể tách khỏi mặt tự nhiên. Dĩ nhiên, con người là sinh vật thông minh nhất, nhưng cuộc đời của anh ta cũng như cuộc đời của mọi tạo vật là gắn chặt với sự sống của vũ trụ. Và nếu như quả thực xu hướng nhân văn là xu hướng mạnh mẽ nhất trong Nho giáo thì các trào lưu tư tưởng khác lại nhấn mạnh hơn tới trật tự tự nhiên và tới các quan hệ huyền bí hay kỹ thuật mà người ta có thể duy trì....