QUY CÁCH TRÌNH BÀY
1. Chúng tôi dịch Kinh thư diễn nghĩa của Lê Quý Đôn theo bản in sách ván gỗ, hiện lưu trữ ở Thư viện Khoa học xã hội Việt Nam, ký hiệu A. 1251. Bản này có lời tựa của Lê Quý Đôn đề năm Cảnh Hưng 33 (1772) và Lời bạt của Lý Trần Quán đệ năm Cảnh Hưng 39 (1778).
2. Trong nguyên bản chữ Hán, tác giả tuy có bám sát trinh tự chính văn Kinh Thư mà trích lục, binh giải, nhưng không chia ra từng tiết. Để bạn đọc dễ theo dõi chúng tôi tạm đánh số thứ tự cho các "thiên" (gồm 58 thiên), và trong mỗi thiên, lại chia lời bình giải của Lê Quý Đôn thành từng "tiết" và đánh số thứ tự các tiết. Vì vậy ở đầu mỗi tiết có hai con số, cách nhau bằng một dấu gạch ngắn thì con số đứng trước là thiên, số sau là tiết.
Ví dụ 6-1 thi số 6 là thiện thứ 6 (Vũ cống) số 1 là tiết thứ 1.
3. Thứ tự của các thiên xin xem Mục lục ở đầu sách.
4. Các chú thích chúng tôi để ở sau mỗi tiết. Để giảm bớt số chú thích trùng lắp, mỗi khi cần chỉ chỗ cho độc giả xem lại hay xem thêm chú thích có liên quan thì ghi số thiên, số tiết và số chú thích (viết tắt là c.t). Ví dụ: xem 9-2, ct 3 là thiên 9 tiết 2, chú thích 3.