Trong hai lần xuất bản trước (1944 và 1953), Thủy động lực học là nội dung phần một của cuốn "Cơ học môi trường liên tục", trong lần xuất bản này, Thủy động lực học được tách thành một cuốn riêng.
Tính chất của nội dung và cách trình bày trong cuốn sách này được nói rõ trong lời nói đầu cho lần xuất bản thứ nhất, có in lại dưới đây. Khi chỉnh lý và bổ sung cho cuốn sách này, điều quan tâm chính của tôi là không thay đổi tính chất đó.
Mặc dù đã 30 năm trôi qua, nội dung cuốn sách thực tế không lỗi thời – chỉ trừ những thay đổi rất nhỏ không đáng kể. Nội dung đó được bổ sung và thay đổi đôi chút. Trong khi đó có bổ sung nhiều tiết mới – khoảng 15 tiết trong toàn cuốn sách.
Những thập kỷ gần đây, thủy động lực học phát triển cực kỳ mãnh liệt. Phù hợp với điều đó, tài liệu trong ngành khoa học này cũng mở rộng khác thường. Nhưng sự phát triển của nó hướng đáng kể vào các ngành ứng dụng, và cả theo hướng làm phức tạp cho các bài toán đã được phép tính lý thuyết chấp nhận (trong số đó có sử dụng máy tính điện tử). Thuộc về các bài toán này, đặc biệt có thể nêu bài toán đa dạng về các tính không ổn định và những sự phát triển của nó, kể cả trong chế độ phi tuyến. Tất cả các vấn đề này nằm ngoài khuôn khổ của cuốn sách; đặc biệt các vấn đề về tính ổn định, về cơ bản, được trình bày (cũng giống như trong các lần xuất bản trước) một cách có hiệu quả.
Không đưa vào cuốn sách cả lý thuyết các sóng phi tuyến trong những môi trường tán sắc. Lý thuyết này hiện nay là chương quan trọng của Vật lý toán. Đối tượng thuần thủy động lực của lý thuyết này là các sóng biên độ lớn ở trên mặt chất lỏng. Nhưng những ứng dụng vật lý cơ bản của nó lại có liên quan đến vật lý plasma, quang học phi tuyến, nhiều loại bài toán về điện động lực học v.v...; theo nghĩa đó lý thuyết các sóng phi tuyến nói trên thuộc về các cuốn sách khác.
Những thay đổi cơ bản đã xuất hiện trong cách hiểu về cơ chế xuất hiện tính chảy rối. Mặc dù một lý thuyết nhất quán về tính chảy rồi còn thuộc về tương lai, nhưng cũng có cơ sở để giả định rằng sự phát triển của nó, cuối cùng, đã đi đúng hướng. Những tư tưởng cơ bản tồn tại cho tới thời gian hiện tại và những kết quả trong ba tiết (830-32) được tôi viết cùng với M.I. Rabinôvits; tôi cảm ơn sâu sắc ông đã có giúp đỡ to lớn. Những thập kỷ gần đây, trong cơ học môi trường liên tục đã xuất hiện một ngành mới – ngành cơ học các tinh thể lỏng. Nó mang trong mình đồng thời những nét đặc trưng riêng cho cơ học môi trường lỏng và đàn hồi. Những cơ sở của môn cơ học các tinh thể lỏng dự định sẽ được đưa vào lần xuất bản mới của cuốn " Lý thuyết đàn hồi".
Trong số những cuốn sách tôi được viết cùng với Lev Đavidovits Lanđau thì cuốn sách này giữ một vai trò đặc biệt. Ông đã để trong đó một phần linh hồn mình. Một lĩnh vực mới của vật lý lý thuyết đối với Lev Đavidôvits Lanđau thời kỳ đó đã lôi kéo ông, và như đã là một nét đặc trưng của ông – ông lại bắt đầu suy nghĩ kỹ lưỡng và rút ra cho mình những kết quả quan trọng từ lĩnh vực đó. Từ đây, đã xuất hiện một loạt các công trình nguyên gốc của ông. Các công trình này đã được in trong nhiều tạp chí. Nhưng một loạt các kết quả hay các quan điểm nguyên gốc thuộc Lev Đaviđôvits Landau và đã in thành sách đều không được công bố riêng rẽ, mà trong một số trường hợp thậm chí cả quyền ưu tiên trong phát minh cũng mãi về sau mới được làm rõ ràng. Trong lần xuất bản mới của cuốn sách, trong tất cả các trường hợp tương tự mà tôi biết được, tôi đều nêu bổ sung quyền tác giả của ông.
Trong khi chỉnh lý cuốn sách, cũng như cả những cuốn sách khác của bộ "Vật lý lý thuyết", tôi vẫn nhận được sự giúp đỡ và các lời khuyên của nhiều bạn hữu và các cộng sự trong công việc. Tôi muốn nhắc trước hết đến nhiều cuộc thảo luận với G.I.Barenblatt, Ia.B.Zelđôvits, L.P.Pitaievxki, Ia.G. Xina. Tôi đã nhận được nhiều chỉ dẫn bổ ích của A.A. Andrónov, X.I. Aniximov, V.A. Belokonia, V.P. Krainov, A.G.Kulikovxki, M.A.Liberman, P.V. Polovin, A.V. Timofeev, AL. Fabrikant. Tôi muốn biểu lộ ở đây lời cảm ơn sâu sắc đối với tất cả các ông.